TIN TRONG NƯỚC

Xem với cỡ chữ Tương phản

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử

Th 2, 31/08/2020 | 16:40 CH

Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Cách mạng tháng Tám là sự kiện mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử vĩ đại. Sau hơn 15 năm chuẩn bị và tập dượt, đấu tranh bền bỉ, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng Tám năm 1945, tận dụng thời cơ lịch sử, Cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi huy hoàng và trọn vẹn. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, là thắng lợi của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước cuộc mít tinh của hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời- Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Ngày 19/8/1945, Hà Nội giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 22/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Tân Trào về Hà Nội. Ngày 25/8, Người về ở và làm việc số nhà 48-Hàng Ngang. Tại đây, Người chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng để ra chủ trương, quyết định về đối nội, đối ngoại; chuẩn bị công bố danh sách thành viên Chính phủ lâm thời và ra Tuyên ngôn Độc lập…

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời- Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Thắng lợi vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám và việc ra đời Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 khẳng định đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, nhân dân ta từ thân phận nô lệ, xứng đáng được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc và làm chủ vận mệnh của mình.

Bản Tuyên ngôn mở đầu bằng câu trích trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ:“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp sau là câu trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp:“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi…”. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập về “chân lý cao cả” mà nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ phải đổ bao xương máu và nước mắt để viết nên. Đó là tư tưởng văn hóa-chính trị rất nhân văn và sâu sắc của lãnh tụ Hồ Chí Minh, một chiến sỹ cộng sản lỗi lạc. Đó là tầm nhìn xa trông rộng, sự nhạy cảm về chính trị và thông hiểu về thế giới là giành được nền độc lập, quyền tự quyết cho dân tộc đã khó, nhưng để nền độc lập đó được tất cả các nước công nhận, tôn trọng còn khó hơn nhiều.

Bởi vì Người luôn thấu hiểu trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thế lực thực dân, đế quốc luôn tìm cách tiêu diệt chính quyền cách mạng còn non trẻ của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Mặt khác, nội dung Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền cơ bản của con người và quyền của các dân tộc. Điều đó có ý nghĩa rất to lớn, vì trong thời điểm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước thuộc địa và phụ thuộc chưa được luật pháp quốc tế bảo vệ. Với Bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã đóng góp một điểm son ngời sáng trong lịch sử luật pháp quốc tế và vẫn còn nguyên giá trị đến cả hôm nay và mai sau.

Bản Tuyên ngôn khẳng định khi thực dân Pháp rút chạy, Nhật đầu hàng Đồng minh, vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân cả nước đã chớp thời cơ, đoàn kết đứng lên đánh đổ xiềng xích thực dân hơn tám mươi năm và chế độ quân chủ phong kiến hà khắc để lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Rõ ràng là chúng ta đã “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…”

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập”. Chính vì vậy, ở phần cuối của Bản Tuyên ngôn Độc lập-năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố:“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đó là lời thề thiêng liêng của dân tộc, là tư tưởng lớn về  khát vọng của nền độc lập dân tộc chân chính hoàn toàn và hướng đến tương lai ấm no, văn minh, hạnh phúc.

Khi đề cập đến giá trị của Bản Tuyên ngôn Độc lập, tại buổi mít tinh ở Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp ngày 14/05/2010 nhân kỷ niệm lần thứ 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Han D’Orville, phó Tổng Giám đốc UNESCO khẳng định “Tuyên ngôn của Người bắt đầu chính từ những trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ… Quan điểm của Người đã nói trước được điều mà 15 năm sau, vào năm 1960, Liên Hợp Quốc đã đưa vào Tuyên bố trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa”. Tiếp sau đó, đến năm 1970, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc mới nhất trí tuyên bố chấm dứt “vô điều kiện chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức và mọi biểu hiện”.

75 năm đã qua, nhưng khi đọc và suy ngẫm, vận dụng, liên hệ với thực tiễn, chúng ta càng cảm nhận, tự hào về những nhạy bén chính trị sâu rộng, cũng như sự tỉnh táo, linh hoạt trong nghệ thuật đấu tranh ngoại giao qua cách thể hiện tinh tế với nội dung hàm ý súc tích và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của dân tộc ta.

Tự hào kỷ niệm 75 năm Quốc khánh và sự kiện ra đời Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử gắn với tên tuổi lãnh tụ kiệt xuất Hồ Chí Minh, với tinh thần phấn khởi và tin tưởng, mỗi người dân chúng ta cần tiếp tục biểu thị quyết tâm ra sức giữ vững nền độc lập, tự do và phấn đấu để độc lập, tự do phải gắn liền với hạnh phúc. Bởi vì, để mỗi người dân đều có hạnh phúc, thì đất nước phải được độc lập, tự do.

Những giá trị to lớn và ý nghĩa thời đại của Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 luôn mãi trường tồn cùng dân tộc và đất nước Việt Nam trên đường đổi mới, phát triển và hội nhập.

Anh Tuấn