Chính trị

Xem với cỡ chữ Tương phản

Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Hội nghị lần thứ 18, khóa XIX

Wed, 04/12/2019 | 14:10 PM

Ngày 4/12/2019, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Hội nghị lần thứ 18, khóa XIX để đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2019; xác định mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu năm 2020; quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết, kết luận, quy định của Trung ương.

Quanh cảnh Hội nghị

Chủ trì hội nghị có các đồng chí Lê Viết Chữ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Trần Ngọc Căng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.

Dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các vụ, địa phương các ban Đảng Trung ương, các đồng chí Ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh, Thường trực HĐND, lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể tỉnh, bí thư các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc, chủ tịch HĐND, UBND huyện, thành phố…

Bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra từ đầu năm theo chủ đề trọng tâm là  “Tiếp tục tinh gọn bộ máy, biên chế; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; ưu tiên phát triển kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội bức xúc”, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cố gắng phấn đấu của các ngành, các cấp, toàn quân, toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả nhất định

Theo báo cáo tại hội nghị, năm 2019, Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước đạt 55.102 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 6,7% so với năm 2018, đạt 100,6% so với kế hoạch. GRDP không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 37.710,5 tỷ đồng, tăng 10,3%. Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,64%; dịch vụ 29,17%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 17,19%. GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt 67,4 triệu đồng/người, tương đương 2.868 USD/người, vượt kế hoạch.

Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 126.469 tỷ đồng, tăng 8,82% so với năm 2018, vượt 3,2% so với kế hoạch. Trong đó, công nghiệp lọc hóa dầu đạt 91.438 tỷ đồng, giảm 0,45% so với năm 2018, nhưng vượt 5,45% kế hoạch năm; công nghiệp ngoài dầu đạt 35.030,96 tỷ đồng, tăng 43,73% so với năm 2018, đạt 97,66% kế hoạch năm.

Giá trị sản xuất dịch vụ ước đạt 16.948,8 tỷ đồng, tăng 7,3%, bằng 96,7% kế hoạch. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 56.016,4 tỷ đồng, tăng 9,76%  so với năm 2018, đat 100,12% kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 750 triệu USD, tăng 26,8% so với năm 2018, vượt 34,0% kế hoạch năm. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 860 triệu USD, giảm 18,5% so với năm 2018. Hoạt động vận tải (không kể vận tải đường sắt) tiếp tục tăng trưởng, chất lượng dịch vụ vận tải ngày càng được cải thiện. Doanh thu vận tải, kho bãi và các hoạt động dịch vụ vận tải ước đạt 4.202,5 tỷ đồng, tăng 7,4% so với năm 2018. Tổng lượt khách đạt 1.140.000 lượt người, tăng 14% so với năm 2018; doanh thu đạt 1.100 tỉ đồng, tăng 16,0%.

Giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 16.000,9 tỷ đồng, tăng 3,6% so với năm 2018 và vượt 0,6% kế hoạch. Trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 8.602,7 tỷ đồng, tăng 0,7%; lâm nghiệp đạt 1.105,6 tỷ đồng, tăng 9,7%; thủy sản đạt 6.292,6 tỷ đồng, tăng 6,8%.

Chương trình xây dựng nông thôn mới được tập trung triển khai thực hiện, đạt kết quả tích cực. Trong năm 2019, dự kiến có 21 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, lũy kế đến hết năm 2019, có 80 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 100% kế hoạch Trung ương giao đến năm 2020; có 3 thôn được công nhận là khu dân cư nông thôn kiểu mẫu.

Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 18.496 tỷ đồng, bằng 92% so với năm 2018 và đạt 92,5% dự toán; tổng chi ngân sách ước khoảng 14.702 tỷ đồng, bằng 87,8% dự toán năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước đạt 34.528 tỷ đồng, giảm 10,6% so với năm 2018, vượt kế hoạch năm (kế hoạch: 30.000 - 32.000 tỷ đồng).

Đã triển khai nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh; xúc tiến đầu tư. Cấp phép đầu tư 108 dự án trong nước, với tổng vốn đăng ký 21.223 tỷ đồng; 3 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư 29,5 triệu USD. Đến 31/10/2019, có 756 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, vốn đăng ký 8.006 tỷ đồng, tăng 14,9% số doanh nghiệp; ước đến cuối năm, dự kiến có trên 900 doanh nghiệp thành lập mới.

Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị tiếp tục được quan tâm đầ tư xây dựng và nâng cấp. Dự kiến đến cuối năm 2019 hoàn thành đưa vào sử dụng 59 công trình, dự án; toàn tỉnh có 104 dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, khu dân cư được cấp chủ trương đầu tư, với tổng diện tích là 1.470,10 ha; trong đó, có 13 dự án đã hoàn thiện hạ tầng; có 32 dự án đã được đầu tư cơ bản hoàn thành hạ tầng kỹ thuật; có 13 dự án đã thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng... Tỷ lệ đô thị hoá toàn tỉnh đạt 22,45%, vượt kế hoạch năm.

Kinh tế - xã hội miền núi tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất các ngành đều tăng. Các chính sách vùng dân tộc miền núi được thực hiện kịp thời, đạt một số kết quả. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện miền núi giảm 5,48%, ước đạt 100% kế hoạch năm.

Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường. Lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; chất lượng khám, chữa bệnh, tinh thần, thái độ phục vụ của đội ngũ y, bác sỹ có bước cải thiện. An sinh xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững, khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố…

Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sắp xếp, đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, tinh giản biên chế gắn cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức đạt được một số kết quả quan trọng. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng được đổi mới. Công tác chính trị, tư tưởng được tăng cường. Tổ chức bộ máy, cán bộ từng bước được kiện toàn; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng đạt kết quả tích cực. Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền chuyển biến tích cực…

Đại biểu dự Hội nghị

Thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội năm 2019, các đại biểu cho rằng, bên cạnh kết quả đạt được, kinh tế-xã hội còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để khắc phục. Có 3 chỉ tiêu chưa đạt so với kế hoạch đề ra, đó là: Cơ cấu kinh tế, tổng thu ngân sách trên địa bàn và tỷ lệ che phủ rừng. Công nghiệp có tăng trưởng nhưng chưa cao. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm. Sản xuất nông nghiệp và thị trường một số nông sản thiếu ổn định; liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị còn hạn chế. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư còn nhiều vướng mắc; việc thu gom xử lý rác thải, chất thải rắn gặp nhiều khó khăn, ô nhiễm môi trường, phá rừng, cháy rừng diễn biến phức tạp…

Về các chỉ tiêu chủ yếu năm 2020, Quảng Ngãi đặt chỉ tiêu tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) (giá SS 2010) đạt: 7,5-8,5%; nếu không tính sản phẩm lọc hóa dầu thì GRDP tăng 16%-18%. GRDP bình quân đầu người khoảng 73,3 triệu đồng/người/năm (tương đương 3.053 USD/người/năm). Tỷ trọng công nghiệp-xây dựng 54-55%; dịch vụ: 29-30%; nông, lâm nghiệp và thủy sản: 16-17%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội từ 28.000-30.000 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách trên địa bàn khoảng: 18.499 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 1.000 tỷ đồng. Tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 24,5%. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới: 18 xã. Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội còn 40%. Tỷ lệ qua đào tạo nghề đạt 55%. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non: 42,33%; Tiểu học: 82,25%; Trung học cơ sở: 86,01%; Trung học phổ thông: 60,53%. Đạt 29,5 giường bệnh/1vạn dân (không tính trạm y tế xã); 7 bác sỹ/vạn dân; tuổi thọ trung bình: 75 tuổi; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 8,4%o; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế: 92%; tỷ lệ phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội: 17%. Có 88% gia đình, 78% thôn, khối phố và 96% cơ quan, đơn vị, đạt chuẩn văn hóa. Tỷ lệ hộ nghèo bình quân giảm 1,62%, trong đó miền núi giảm 5,89%. Tỷ lệ dân cư đô thị dùng nước sạch 89%; tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh 95%; tỷ lệ xử lý chất thải nguy hại 60%; tỷ lệ xử lý chất thải y tế đạt chuẩn, quy chuẩn quốc gia 85%. Tỷ lệ độ che phủ rừng (có tính cây phân tán) đạt 52%. Xây dựng xã, phường, thị trấn vững mạnh về quốc phòng đạt 92%, trong đó: có 55% xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện.  Xây dựng xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn“An toàn về an ninh trật tự” trên 90%; doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự” trên 70%. Có 50% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; kết nạp khoảng 1.700 đảng viên.

Bí thư Tỉnh ủy Lê Viết Chữ phát biểu tại Hội nghị

Phát biểu bế mạc hội nghị Bí thư Tỉnh ủy Lê Viết Chữ nhấn mạnh: Để chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, cần nêu cao hơn nữa tinh thần đoàn kết, năng động; đổi mới, sáng tạo; dám nghĩ, dám làm, vì lợi ích chung; quyết liệt trong lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp để thực hiện thắng lợi toàn diện các chỉ tiêu, nhiệm vụ, chào mừng đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Các cấp, các ngành rà soát việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX; các nghị quyết, kết luận của Tỉnh ủy khóa XIX...  để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIX. Chỉ đạo chuẩn bị tốt nội dung văn kiện, nhân sự và các điều kiện để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020 - 2025...

Trong khuôn khổ chương trình Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 18 khóa XIX, các đại biểu được quán triệt các Nghị quyết, Kết luận, Quy định của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5/9/2019 về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 về việc Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Kết luận số 57-KL/TW ngày 16/9/2019 về Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; Kết luận  số 59-KL/TW ngày 16/9/2019 về Chủ trương tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng tham gia vào hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội; Kết luận số 64-KL/TW ngày 30/10/2019 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW về Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới.

D.T