Văn Kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII

Xem với cỡ chữ Tương phản

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII

TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI

HOÁ, TẠO NỀN TẢNG ĐỂ ĐẾN NĂM 2020 QUẢNG NGÃI TRỞ THÀNH TỈNH CÔNG NGHIỆP

-------------

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVII

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII được triển khai thực hiện trong bối cảnh chính trị, xã hội của đất nước ổn định; Trung ương có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực Miền Trung và tỉnh phát triển, đặc biệt là việc xây dựng Nhà máy lọc dầu và Khu kinh tế Dung Quất. Bên cạnh đó, tỉnh ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; giá cả, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp gây thiệt hại lớn cho sản xuất, đời sống của nhân dân.

Trước tình hình trên, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện Nghị quyết Đại hội đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.

A. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

           I. Kinh tế tăng trưởng tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, quy mô kinh tế tăng lên đáng kể, tỉnh ta đã cơ bản ra khỏi tình trạng kém phát triển

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 18,53%/năm, vượt chỉ tiêu (17-18%/năm)*, gấp 1,8 lần giai đoạn 2001 - 2005. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng công nghiệp từ 30% tăng lên 58,3%; dịch vụ từ 35,2% giảm xuống 22,9%; nông nghiệp từ 34,8% giảm xuống 18,8%. Tỷ trọng lao động công nghiệp từ 12,7% tăng lên 17%; lao động dịch vụ từ 19,8% tăng lên 22%; lao động nông nghiệp từ 67,5% năm 2005 giảm xuống 61% năm 2010, vượt chỉ tiêu đề ra. Quy mô tổng sản phẩm năm 2010, tính theo giá thực tế đạt 27.293 tỷ đồng, gấp 4,25 lần; tính theo giá so sánh đạt 8.694 tỷ đồng, gấp 2,34 lần so với năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.209 USD, vượt 20% chỉ tiêu, gấp 3,79 lần năm 2005.

1. Công nghiệp - xây dựng phát triển nhanh, trong đó công nghiệp có bước phát triển nhảy vọt.

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 40%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 53,6%/năm; năm 2010 đạt 15.354 tỷ đồng, gấp 8,6 lần năm 2005. Quy mô và năng lực sản xuất của ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng ở Khu kinh tế Dung Quất tăng lên đáng kể. Sản phẩm công nghiệp lọc hoá dầu, cơ khí, vật liệu xây dựng… đã tạo lập được vị thế trên thị trường.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân 13,4%/năm. Công tác quy hoạch, quản lý thực hiện quy hoạch; phân công, phân cấp, quản lý dự án đầu tư; thanh tra, kiểm tra có tiến bộ hơn.

Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã và đang được triển khai xây dựng. Khu công nghiệp Quảng Phú và Khu công nghiệp Tịnh Phong đạt tỷ lệ lấp đầy tương ứng là 70% và 60% diện tích; thu hút 77 dự án đăng ký đầu tư, có 58 dự án đi vào hoạt động, vốn thực hiện 1.550 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho trên 7.000 lao động. Toàn tỉnh có 16 cụm công nghiệp, với 54 dự án đang hoạt động, vốn thực hiện khoảng 102,5 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 1.500 lao động.

2. Nông nghiệp tiếp tục phát triển, nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống của nông dân được nâng lên.

Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng bình quân 3,42%/năm; trong đó nông nghiệp tăng 2,4%, lâm nghiệp tăng 4,81%, thuỷ sản tăng 5,43%.

Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất nông nghiệp năm 2010 đạt trên 32 triệu đồng, gấp 2,35 lần so với năm 2005. Sản lượng lương thực năm 2010 đạt 448.800 tấn, vượt 6,8% chỉ tiêu, bảo đảm lương thực trong tỉnh. Vùng nguyên liệu mì, keo phát triển. Đàn trâu, bò tăng cả số lượng và chất lượng, tỷ trọng chăn nuôi chiếm 31,5% trong ngành nông nghiệp, đạt 97,2% chỉ tiêu.

Công tác quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng đạt được một số tiến bộ. Tình trạng phá rừng, khai thác gỗ trái phép đã hạn chế đáng kể; mô hình kinh tế vườn rừng phát triển, tổng diện tích rừng trồng tập trung đạt 33.000 ha, độ che phủ rừng năm 2010 đạt 45%, đạt 100% chỉ tiêu.

Thủy sản tiếp tục phát triển. Năm 2010, sản lượng thuỷ sản đạt 99.700 tấn, vượt chỉ tiêu 4,9%; sản lượng tôm nuôi đạt 6.500 tấn, vượt 54,7% chỉ tiêu. Năng lực đánh bắt hải sản tăng, toàn tỉnh hiện có 5.616 chiếc tàu, tăng 1.337 chiếc; công suất bình quân tăng từ 58CV/chiếc lên 85CV/chiếc so với năm 2005. Công tác quản lý, đăng ký, đăng kiểm tàu thuyền chuyển biến tích cực.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn được tăng cường. Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, điện lực, chợ, cơ sở giáo dục, y tế và các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, góp phần làm cho nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống của đa số nông dân được nâng lên.

3. Dịch vụ có bước phát triển khá, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Giá trị ngành dịch vụ tăng bình quân 13,5%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng 28,4%/năm, năm 2010 đạt 16.800 tỷ đồng, gấp 3,48 lần năm 2005. Dịch vụ vận tải, viễn thông, ngân hàng, tín dụng phát triển nhanh. Khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hóa đều tăng hơn 11%/năm; doanh số dịch vụ bưu chính viễn thông năm 2010 đạt 700 tỷ đồng, gấp 4,1 lần năm 2005; doanh số cho vay và dư nợ tín dụng đều tăng hơn 2 lần so với năm 2005. Du lịch có bước phát triển, doanh thu tăng 25,3%/năm; các dự án phát triển du lịch tại Khe Hai, Mỹ Khê, Sa Huỳnh đang được triển khai thực hiện. Việc xây dựng các tuyến du lịch, mở rộng liên doanh, liên kết bước đầu đạt kết quả.

4. Khu kinh tế Dung Quất phát triển khá nhanh, bước đầu phát huy được vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Tỉnh đã phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, kịp thời với các bộ, ban, ngành Trung ương xây dựng Khu kinh tế Dung Quất đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc hoàn thành và đưa Nhà máy lọc dầu vào hoạt động 100% công suất, cùng với kết quả xây dựng nhà máy sản xuất hạt nhựa Polypropylen, nhà máy công nghiệp nặng Doosan Vina, Cảng tổng hợp, Cảng chuyên dùng, các tuyến đường giao thông, các công trình, cơ sở sản xuất khác đã làm cho quy mô kinh tế của tỉnh tăng lên vượt bậc.

Trong 5 năm, có 80 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư, tổng số vốn đăng ký đạt 4,5 tỷ USD, giá trị vốn thực hiện đạt 4.380 triệu USD gấp 8,1 lần so với giai đoạn 1996 – 2005, nâng tổng số dự án được cấp phép đầu tư lên 120 dự án, với tổng vốn đăng ký khoảng 08 tỷ USD, tổng vốn thực hiện trên 4,9 tỷ USD; hiện đã có 60 dự án hoàn thành đi vào hoạt động; tổng giá trị sản xuất đạt 46.000 tỷ đồng, khối lượng hàng hoá qua cảng Dung Quất đạt 16,9 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu trên 364 triệu USD, giải quyết việc làm cho hơn 12.000 lao động. Khu kinh tế Dung Quất đã và đang là động lực to lớn, trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

5. Kinh tế đối ngoại bước đầu được mở rộng; việc huy động các nguồn vốn đạt kết quả khá; thu ngân sách trên địa bàn vượt kế hoạch.

Hoạt động xuất khẩu đạt kết quả vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu tăng 49,3%/năm, riêng năm 2010 đạt 245 triệu USD, bằng 2,45 lần chỉ tiêu và gấp 7,9 lần năm 2005; công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh, đã thu hút được 38 dự án ODA, 21 dự án FDI hơn 200 dự án vốn đầu tư trong nước. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt 89.257 tỷ đồng, tăng 23,3%/năm, vượt hơn 27% chỉ tiêu, gấp 4,6 lần giai đoạn 2001 - 2005. Thu ngân sách hàng năm luôn vượt dự toán; năm 2010, Nhà máy lọc dầu đi vào hoạt động nên thu ngân sách tăng cao, đạt 13.700 tỷ đồng, gấp 3,7 lần năm 2009.

6. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường đáng kể.

Trong 5 năm, đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 300 công trình các loại, chưa kể các công trình phúc lợi nhỏ do vốn chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện. Mạng lưới giao thông phát triển, tỉ lệ nhựa hoá, cứng hoá đường tỉnh đạt 84,4%, đường huyện đạt 55,7%, đường xã đạt 39,6%. Hệ thống thuỷ lợi được đầu tư kiên cố hoá với 527 công trình các loại, nâng tổng diện tích tưới lên 56.130 ha, đảm bảo nước tưới chủ động cho hơn 90% diện tích lúa và 45% diện tích các loại cây trồng khác. Hệ thống lưới điện đang được hoàn thiện. Hạ tầng bưu chính viễn thông được đầu tư nâng cao năng lực và dung lượng. Hạ tầng kỹ thuật phát thanh, truyền hình được đầu tư nâng cấp và trang bị thêm phương tiện hiện đại. Hạ tầng giáo dục, y tế được tăng cường, xây dựng mới trên 3.000 phòng học và nhiều phòng thí nghiệm, thực hành, thư viện; xây dựng đưa vào sử dụng 02 bệnh viện chuyên khoa và bệnh viện đa khoa mới ở tuyến tỉnh, nâng cấp 12 bệnh viện ở tuyến huyện và trên 60 trạm y tế ở tuyến xã... từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

7. Các thành phần kinh tế phát triển, khơi dậy được tiềm năng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trưởng nhanh.

Đã hoàn thành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch, sau sắp xếp, đổi mới, các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn. Kinh tế tập thể chuyển biến theo hướng tăng dần số lượng hợp tác xã phi nông nghiệp; một số hợp tác xã kinh doanh dịch vụ tổng hợp bước đầu hoạt động có hiệu quả. Kinh tế tư nhân phát triển khá mạnh.

Toàn tỉnh hiện có trên 3.160 doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp gấp 3,2 lần; vốn đăng ký gấp 7,5 lần năm 2005. Nhìn chung, các thành phần kinh tế đã phát huy được tiềm năng về vốn, lao động, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

8. Các vùng kinh tế bước đầu phát huy được lợi thế, tạo sự liên kết, hỗ trợ giữa các vùng.

Thành phố Quảng Ngãi tiếp tục được chỉnh trang, nâng cấp và mở rộng. Đến nay, đã hoàn thành hầu hết các tiêu chí cơ bản của đô thị loại III, đạt một số tiêu chí cơ bản của đô thị loại II. Khu kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp của tỉnh đã thu hút gần 180 dự án đầu tư, giải quyết việc làm cho khoảng 20 ngàn lao động, phát huy ngày càng rõ vai trò hạt nhân, thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn phát triển.

Kinh tế vùng đồng bằng, ven biển và hải đảo tiếp tục chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Hệ thống giao thông, cảng biển, hạ tầng kỹ thuật ngành thủy sản và du lịch được tăng cường đáng kể. Sản lượng lương thực, thực phẩm và một số loại nguyên liệu tăng khá, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ vừa cung cấp cho các vùng khác trong tỉnh.

Kinh tế vùng miền núi có bước phát triển. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nhất là Chương tình 134, 135 và gần đây là Quyết định 167, Nghị quyết 30a của Chính phủ được triển khai thực hiện có kết quả. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các thiết chế văn hóa từng bước được đầu tư xây dựng. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo từ 75% năm 2005 giảm xuống còn 35% năm 2010. 

9. Công tác quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường đạt được một số kết quả.

Đã hoàn thành cơ bản việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010; việc đo vẽ bản đồ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các hộ đồng bào dân tộc các huyện miền núi; cấp 710.100 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, đạt 96,3% kế hoạch. Công tác thông tin, truyền thông về bảo vệ môi trường được tăng cường. Hoàn thành việc xây dựng kế hoạch quản lý chất thải rắn, quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường đến năm 2010; quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2020. Hình thành được hệ thống thu gom và xử lý chất thải, rác thải ở đô thị và một số vùng đông dân cư. Hiện có 80% các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề được thu gom rác thải; 85% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh; tỷ lệ diện tích cây xanh thành phố Quảng Ngãi, các thị trấn đạt 60%.

II. Giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực; các vấn đề xã hội được chú trọng thực hiện, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên

1. Giáo dục và đào tạo phát triển cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề, góp phần đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Hệ thống trường học, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường ở các cấp học đều tăng. Cơ sở vật chất trường, lớp, trang thiết bị dạy học, nhà công vụ giáo viên được tăng cường. Đã tập trung đào tạo, bồi dưỡng và cơ bản hoàn thành việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý, khắc phục một bước bệnh thành tích trong giáo dục. Chất lượng giáo dục có chuyển biến tích cực, tỷ lệ học sinh khá, giỏi, học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng ngày càng cao. Đã hoàn thành chỉ tiêu về xây dựng trường mầm non, trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở; đang triển khai thực hiện việc đưa hệ thống trường mầm non bán công vào công lập, thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Công tác xã hội hoá giáo dục được quan tâm chỉ đạo, phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển, việc xây dựng xã hội học tập được quan tâm hơn, bước đầu góp phần thực hiện công bằng trong giáo dục.

Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề phát triển mạnh. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có 23 cơ sở đào tạo nghề. Sự hình thành, phát triển trường Đại học Phạm Văn Đồng, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (cơ sở Miền Trung) và các trường cao đẳng, trung cấp nghề đã góp phần tích cực vào đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Năm năm qua, đã đào tạo nghề cho 35.600 lao động, có khoảng 70% tìm được việc làm, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 14,6% năm 2005 lên 28% năm 2010, đạt chỉ tiêu đề ra.

2. Khoa học và công nghệ phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Công tác quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có nhiều tiến bộ. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ được chú trọng và có hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu các đề tài khoa học đã cung cấp được một số luận cứ góp phần xây dựng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức thành công các cuộc hội thảo khoa học. Lĩnh vực công nghệ có bước tiến mới, một số công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong lĩnh vực lọc, hóa dầu, chế tạo cơ khí, sản xuất nông nghiệp đã được đưa vào ứng dụng đạt kết quả. Toàn tỉnh, có trên 70 doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến và trên 250 nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ được bảo hộ, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp.

3. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân được nâng lên, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được chú trọng.

Cơ sở khám, chữa bệnh và trang thiết bị y tế ở các tuyến đều được tăng cường; toàn tỉnh có 30% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, đội ngũ cán bộ y tế tăng lên cả số lượng và chất lượng, 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ, Bệnh viện đa khoa tỉnh đã ứng dụng có kết quả một số loại phẫu thuật mới trong điều trị...đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.  Chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình được thực hiện đạt nhiều kết quả. Các chỉ tiêu về công tác dân số cơ bản đã được hoàn thành (tỷ suất sinh thô giảm còn 1,46%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn dưới 1,0%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng từ 28% giảm còn 20%), chất lượng dân số được nâng lên, quy mô gia đình có một đến hai con trở thành phổ biến. Công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường. Hệ thống y tế dự phòng ngày càng hoàn thiện, dịch bệnh được khống chế, đẩy lùi.

4. Hoạt động văn hoá, thông tin, báo chí, phát thanh - truyền hình, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần và nâng cao thể chất của nhân dân.

Các hoạt động văn hoá được đẩy mạnh. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ngày càng phát triển. Các di sản văn hoá, giá trị văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát huy; các di tích lịch sử, văn hoá được đầu tư tôn tạo. Các thiết chế văn hoá ở cơ sở từng bước được xây dựng. Toàn tỉnh có 80% gia đình; 65% thôn, tổ dân phố; 85% cơ quan và 8% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hoá.

Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt kết quả tích cực. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh tương đối toàn diện sự nghiệp đổi mới, khơi dậy và phát huy được các giá trị lịch sử, truyền thống cách mạng của quê hương, con người Quảng Ngãi.

Báo chí, phát thanh - truyền hình, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin phát triển nhanh. Các loại hình, ấn phẩm báo chí cơ bản phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân. Đã chú trọng đầu tư hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất lượng thông tin, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Hiện nay, diện phủ sóng truyền hình đạt 95%, phủ sóng phát thanh đạt 99%; số thuê bao điện thoại đạt 85 máy/100 dân, gấp 2,83 lần chỉ tiêu; số cổng ADSL và các loại hình truy cập Internet khác tăng khá nhanh, đạt gần 52.000 điểm. 

Phong trào thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, khoảng 25% dân số thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, số gia đình thể thao đạt khoảng 14%. Một số môn thể thao thành tích cao được quan tâm đầu tư, số lượng vận động viên tham gia thi đấu và đoạt huy chương cấp quốc gia  hàng năm tăng lên.

5. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, các chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội được chú trọng thực hiện. 

Phong trào đền ơn, đáp nghĩa được đẩy mạnh, đời sống người có công cách mạng được nâng lên. Hoàn thành việc xây dựng nhà ở cho 17.000 hộ nghèo, hộ chính sách trước thời hạn kế hoạch 2 năm và đang tiếp tục hoàn thành xây dựng nhà ở cho 12.000 hộ nghèo, hộ chính sách còn lại. Thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt kết quả tích cực, bảo hiểm thất nghiệp bước đầu đạt kết quả. Công tác giảm nghèo được chú trọng thực hiện, nhất là ở miền núi. Nhiều giải pháp tích cực đã được triển khai, tạo điều kiện cho hộ nghèo vươn lên phát triển sản xuất, ổn định đời sống; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 31,94% năm 2005 giảm còn 15%, vượt chỉ tiêu. Bình quân mỗi năm tạo thêm việc làm và giải quyết việc làm mới cho 33.800 lao động, bằng 102% chỉ tiêu; trong 5 năm, đã đưa 3.360 người đi xuất khẩu lao động; tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 5,1% năm 2005 xuống còn 4,5% năm 2010.

III. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, công tác nội chính có chuyển biến tích cực, tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội

Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chiến lược an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc. Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Tập trung củng cố các địa bàn trọng điểm, xung yếu về quốc phòng - an ninh, đặc biệt là tuyến miền núi, tuyến biển, đảo và Khu kinh tế Dung Quất. Tham gia đề xuất, giải quyết có hiệu quả những diễn biến phức tạp trên biển Đông. Phát huy tốt vai trò của các lực lượng vũ trang trong công tác tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai.

Lực lượng vũ trang đã triển khai thực hiện đồng bộ các mặt công tác theo kế hoạch, xây dựng lực lượng bảo đảm sẵn sàng ứng phó với các tình huống, đáp ứng yêu cầu tác chiến phòng thủ và phòng chống giảm nhẹ thiên tai. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sỹ và chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác tuyển quân, huy động lực lượng dự bị động viên hàng năm đạt 100% chỉ tiêu, xây dựng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số, chất lượng được nâng lên.

Lực lượng công an luôn chủ động nắm tình hình, đấu tranh ngăn chặn kịp thời âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra đột biến, bất ngờ, không để hình thành tổ chức phản động; thực hiện tốt các kế hoạch bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn, liên tục tấn công, trấn áp các loại tội phạm, triệt phá nhiều băng, nhóm tội phạm hình sự, ngăn chặn có hiệu quả một số tệ nạn xã hội. Quản lý nhà nước về trật tự xã hội, trật tự công cộng đạt được kết quả quan trọng; công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng cháy, chữa cháy được tăng cường. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển rộng và hiệu quả hơn.

Đã quan tâm chỉ đạo công tác nội chính, tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trong tỉnh. Chỉ đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đạt những kết quả nhất định. Bộ máy, cán bộ các cơ quan thuộc khối nội chính được củng cố, kiện toàn; công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ tư pháp cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác hành chính tư pháp, hỗ trợ tư pháp được đẩy mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được chú trọng. Công tác thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, kịp thời xử lý các sai phạm và chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều tiến bộ, đã giải quyết dứt điểm một số vụ việc phức tạp, kéo dài.

Công tác phòng, chống tham nhũng đã có cố gắng và đạt được một số kết quả nhất định. Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng trong tỉnh đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, gắn kết chặt chẽ với việc nghiên cứu quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) và Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thành lập Ban Chỉ đạo và kiện toàn bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh; chỉ đạo các cơ quan khối nội chính tập trung điều tra, truy tố và xét xử các vụ án phạm tội tham nhũng đúng pháp luật.

IV. Công tác xây dựng chính quyền, mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân có nhiều tiến bộ

1. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả hơn.

Đã lãnh đạo, chỉ đạo thành công việc bầu bổ sung đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2004 - 2011 và bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XII tại tỉnh. Hội đồng nhân dân các cấp đã kịp thời cụ thể hoá chủ trương, chính sách của chính quyền cấp trên; thể chế hoá chủ trương của cấp uỷ cùng cấp. Các kỳ họp hội đồng nhân dân và hoạt động của đại biểu hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới, phát huy được tính dân chủ, nâng cao chất lượng trong thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn, trong tiếp xúc và giải quyết các kiến nghị của cử tri, trong giám sát, tham vấn ý kiến nhân dân.

Tỉnh ủy đã tăng cường lãnh đạo công tác cải cách hành chính gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; chỉ đạo thực hiện Nghị định 13, 14 của Chính phủ, sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ và rà soát điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ các cơ quan hành chính cơ bản phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Ủy ban nhân dân các cấp và các sở, ngành đã triển khai toàn diện các nội dung cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; chú trọng nâng cao kỷ luật, kỷ cương, chỉ đạo thực hiện cơ chế “một cửa” từ tỉnh đến cơ sở, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước theo quy định, thực hiện thí điểm “một cửa hiện đại” tại UBND Thành phố Quảng Ngãi. Hiệu lực, hiệu quả  quản lý, điều hành của chính quyền các cấp trên các lĩnh vực đời sống xã hội được nâng lên.  

2. Công tác dân vận được tăng cường, hoạt động của mặt trận, các hội,  đoàn thể nhân dân tiếp tục được đổi mới.

Các cấp uỷ đã kịp thời cụ thể hoá chủ trương của Trung ương, của Tỉnh uỷ thành các kế hoạch, chương trình hành động và tập trung chỉ đạo thực hiện công tác dân vận đạt kết quả khá toàn diện. Thường xuyên chăm lo củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ mặt trận và các hội, đoàn thể các cấp trong tỉnh. Đã lãnh đạo, chỉ đạo thành công đại hội mặt trận, hội, đoàn thể các cấp; đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số trong tỉnh lần thứ I.

Mặt trận, hội, đoàn thể các cấp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, xây dựng quy chế phối hợp với các cấp chính quyền, tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước, nhiều cuộc vận động phù hợp với tính chất và đặc điểm của đoàn thể mình, đã động viên, cổ vũ đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia. Thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để phản ánh, kiến nghị với cấp ủy và chính quyền có chủ trương, biện pháp giải quyết phù hợp; đồng thời phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội; tham gia hoà giải, giải quyết những mâu thuẫn bất đồng trong cộng đồng dân cư, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thông qua các hoạt động, mặt trận và các hội, đoàn thể đã tăng cường phát triển đoàn viên, hội viên, tập hợp quần chúng, kiện toàn tổ chức bộ máy ngày càng vững mạnh.  

Các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động do mặt trận và các hội, đoàn thể tổ chức ngày càng có chất lượng và đem lại kết quả thiết thực, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

V. Công tác xây dựng Đảng đạt được nhiều kết quả quan trọng

1. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được tăng cường; thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt kết quả tích cực.

Các cấp ủy đảng đã tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức, thống nhất về chính trị, tư tưởng trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong xã hội, tạo sự phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Đồng thời đã chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; qua đó, nâng cao tính tự giác trong phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị và đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực hưởng ứng, làm theo. Qua học tập, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người và đã xây dựng kế hoạch, đăng ký làm theo với những việc làm cụ thể, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị và cá nhân. Sau 4 năm thực hiện Cuộc vận động, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự chuyển biến tích cực, đã xuất hiện hàng trăm tập thể, cá nhân tiêu biểu về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

2. Công tác tổ chức, cán bộ đạt được kết quả tương đối toàn diện.

Đã kiện toàn bộ máy các cơ quan đảng, chính quyền, hội, đoàn thể các cấp theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của các tổ chức được quy định rõ ràng hơn, khắc phục cơ bản tình trạng trùng lắp, chồng chéo. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành nhiều quy chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị; chỉ đạo mặt trận và các hội, đoàn thể đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tạo sự đồng bộ và nâng cao hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ.

Công tác cán bộ được thực hiện toàn diện ở tất cả các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí và thực hiện chính sách cán bộ. Đội ngũ cán bộ đã có bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Đến nay, đa số cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện đạt tiêu chuẩn chức danh và tiêu chuẩn ngạch theo quy định, cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trước mắt và tạo nguồn cho giai đoạn tiếp theo.

Công tác đánh giá cán bộ được thực hiện qua việc tuyển chọn, bổ nhiệm, luân chuyển và định kỳ hàng năm, bảo đảm phát huy trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được tiến hành kịp thời, đồng bộ ở cả ba cấp.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết 06 về phát triển nguồn nhân lực, đồng thời chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều đề án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Đã tổ chức đào tạo tại tỉnh và cử đi đào tạo sau đại học cho hàng trăm cán bộ, mở các lớp đại học và cao đẳng cho hàng ngàn cán bộ, trong đó có 558 cán bộ cấp xã và 120 sinh viên cử tuyển cho các huyện miền núi. Ngoài ra, còn chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ cho hàng ngàn cán bộ các cấp trong tỉnh; tiếp nhận, tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị, hành chính và phân công 70 sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy tự nguyện về công tác ở cấp xã. 

Công tác luân chuyển cán bộ được đẩy mạnh. Trong nhiệm kỳ, đã luân chuyển 11 cán bộ cấp tỉnh về công tác ở cấp huyện, 58 cán bộ cấp huyện về công tác ở cấp xã. Nhìn chung, cán bộ luân chuyển phát huy được tác dụng.

Đã thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách của Trung ương đối với cán bộ, đồng thời tỉnh đã ban hành, tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức được điều động, luân chuyển, cử đi đào tạo, chính sách cho nghỉ việc, thôi việc đối với cán bộ chủ chốt cấp xã, chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở cấp xã, thu hút cán bộ có trình độ cao về công tác tại tỉnh.

Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã thực hiện tốt các quy định của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chú trọng nắm tình hình, có biện pháp ngăn ngừa "tự diễn biến" về tư tưởng chính trị, bảo vệ tài liệu bí mật; bảo vệ an ninh nội bộ và phòng, chống nội gián; đồng thời chủ động giải quyết những vấn đề về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên.

3. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên.

Các cấp uỷ đảng đã triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt nhiều kết quả. Các loại hình tổ chức cơ sở đảng đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định, thể hiện rõ vai trò hạt nhân lãnh đạo nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị. Đã chú trọng kiện toàn, củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém, hoàn thành việc lập tổ chức đảng ở 65 thôn, tổ dân phố trước đây chưa có tổ chức đảng. Tổ chức cơ sở đảng yếu kém từ 3,8% giảm xuống còn 0,5%, tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh từ 65,8% tăng lên 71,6%, vượt chỉ tiêu. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp có bước phát triển mới, đặc biệt đã thành lập được 01 chi bộ trong doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Công tác phát triển, quản lý và nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Năm năm qua, đã kết nạp 8.790 đảng viên, bình quân hàng năm kết nạp 1.758 đảng viên, vượt chỉ tiêu. Chất lượng đảng viên được nâng lên, số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 81,4%, tăng hơn 10% so với đầu nhiệm kỳ và tăng 11,4% so với chỉ tiêu.

4. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được tăng cường.

 Công tác kiểm tra, giám sát đã được cấp uỷ đảng, ủy ban kiểm tra các cấp triển khai thực hiện đạt kết quả khá toàn diện. Hoạt động kiểm tra, giám sát từng bước đi vào nền nếp; chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Việc xem xét, xử lý kỷ luật đảng cơ bản thực hiện đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục. Đã chú trọng kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên. Thực hiện kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào lĩnh vực quản lý đất đai, tài chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và công tác cán bộ; giám sát thường xuyên và tương đối toàn diện trên các mặt công tác. Trong nhiệm kỳ, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra 1.058 tổ chức, 1.918 đảng viên, giám sát 1.079 tổ chức, 913 đảng viên; trong đó, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã kiểm tra trực tiếp 66 tổ chức, 31 đảng viên, giám sát trực tiếp 59 tổ chức, 27 đảng viên; đã thi hành kỷ luật 18 tổ chức đảng (khiển trách 15, cảnh cáo 03) và 821 đảng viên (khiển trách 343, cảnh cáo 336, khai trừ 77, cách chức 65). Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát huy ưu điểm, chỉ rõ khuyết điểm, xử lý nghiêm đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm, giáo dục cán bộ, đảng viên, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

5. Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng có nhiều đổi mới.

Các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở đã kịp thời ban hành chương trình công tác toàn khoá, quy chế làm việc và phân công nhiệm vụ các thành viên của cấp uỷ; cụ thể hoá các chủ trương của Trung ương và nghị quyết đại hội của cấp mình để tổ chức chỉ đạo thực hiện; ban hành quy chế hoạt động của uỷ ban kiểm tra và nhiều quy chế, quy định nhằm đảm bảo sự phối hợp hoạt động đồng bộ trong chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X), các cấp uỷ đã vừa tăng cường sự lãnh đạo của mình vừa đảm bảo tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan chính quyền, hội, đoàn thể theo pháp luật và điều lệ quy định, đồng thời đề cao vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên; đã chú trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc theo hướng sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm đối với các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

B. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

I. Kinh tế phát triển chưa đồng đều giữa các ngành, các vùng, có mặt thiếu bền vững

Kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng không đồng đều giữa các ngành, các vùng; trong khi ngành công nghiệp và vùng động lực tăng nhanh thì ngành nông nghiệp và vùng nông thôn, miền núi lại tăng chậm dẫn đến sự chênh lệch lớn về sản xuất và đời sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp và sản phẩm còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Ngoài các cơ sở công nghiệp nặng ở Khu kinh tế Dung Quất, các cơ sở công nghiệp còn lại, đa số có quy mô sản xuất nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu. Sản xuất nông nghiệp phát triển thiếu toàn diện, chưa hình thành được nhiều vùng nguyên liệu chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến, cây mía giảm mạnh về diện tích, sản lượng; giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác còn thấp; chăn nuôi thiếu ổn định. Dịch vụ cao cấp chưa nhiều, du lịch phát triển chưa đạt kế hoạch, dịch vụ ở Khu kinh tế Dung Quất phát triển chưa tương xứng với nhịp độ phát triển công nghiệp.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch, nhất là quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch sử dụng đất chưa cao; một số quy hoạch không khả thi nhưng chậm được điều chỉnh. Công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập, các chính sách về đất đai, bồi thường, tái định cư chưa hợp lý, tình trạng tranh chấp đất đai xảy ra ngày càng nhiều. Phân bổ nguồn vốn đầu tư còn dàn trải, hiệu quả thấp. Nhiều công trình trọng điểm thực hiện không đạt tiến độ, một số công trình đã được xây dựng nhưng không hiệu quả, gây lãng phí, bức xúc trong nhân dân.

Công tác quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên trên địa bàn còn nhiều hạn chế. Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ở đô thị, khu công nghiệp,  tình trạng sử dụng hóa chất độc hại trong sản xuất có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững và sức khỏe nhân dân.

II. Một số mặt trên lĩnh vực văn hoá - xã hội chưa đạt yêu cầu

Phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Giáo dục toàn diện đạt kết quả chưa cao; giáo dục ở miền núi còn nhiều bất cập; tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan chậm được khắc phục. Chất lượng đào tạo nghề còn thấp. Hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng còn kém hiệu quả. Quản lý hành nghề y, dược tư nhân chưa chặt chẽ. Trình độ chuyên môn và thái độ phục vụ của một bộ phận cán bộ y tế yếu. Các dịch vụ văn hóa, vui chơi giải trí còn đơn điệu, trong khi đó quản lý xã hội, quản lý văn hóa còn lỏng lẻo, sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại đã làm sa sút đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh, thiếu niên.

III. Công tác quốc phòng - an ninh và nội chính còn một số hạn chế

Xây dựng xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Một số nơi, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc chưa mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ chưa đạt yêu cầu. Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn còn có yếu tố phức tạp, một số loại tội phạm, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội gia tăng.

Kết quả cải cách tư pháp có mặt còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa đồng bộ; tiến độ giải quyết một số vụ án chậm. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đạt kết quả chưa cao, một số vụ còn để kéo dài dẫn đến khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí triển khai thực hiện thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Tình trạng lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức, vật tư trong sản xuất, trong xây dựng cơ bản và trong tiêu dùng còn nhiều, chưa được khắc phục có hiệu quả.

IV. Công tác xây dựng chính quyền; công tác dân vận, mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân còn một số mặt chưa đạt yêu cầu

Hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ đạo điều hành của UBND các cấp ở một số mặt còn hạn chế. Thực hiện cải cách hành chính đạt kết quả chưa toàn diện,  thủ tục hành chính còn rườm rà, gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Chế độ trách nhiệm, quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp còn thiếu đồng bộ, hiệu quả công tác chưa cao. Một bộ phận cán bộ, công chức còn quan liêu, nhũng nhiễu, thụ động; năng lực chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Hoạt động của mặt trận, các hội, đoàn thể ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông người theo đạo và ở các doanh nghiệp tư nhân còn yếu. Việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phản biện xã hội và tham gia giải quyết những vướng mắc phát sinh trong đời sống xã hội, nhất là các vấn đề về tôn giáo, dân tộc, tranh chấp đất đai, tranh chấp giữa người lao động với chủ doanh nghiệp... còn nhiều hạn chế.

V. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn một số khuyết điểm

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng còn một số mặt thực hiện chưa tốt, tính thuyết phục chưa cao. Thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, nhất là việc làm theo. Một số khâu trong công tác tổ chức, cán bộ tiến hành chậm, kết quả hạn chế. Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ có trường hợp chưa sát đúng với yêu cầu nhiệm vụ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt chất lượng chưa cao. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ, trẻ tuổi, dân tộc thiểu số còn thấp. Số cán bộ, công chức cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn chức danh và tiêu chuẩn ngạch theo quy định còn nhiều. Một số tổ chức cơ sở đảng thực hiện chưa đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu thấp, quản lý đảng viên lỏng lẻo, đấu tranh tự phê bình và phê bình không nghiêm túc. Một số nơi, cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát; một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về chính trị, vi phạm về đạo đức, lối sống chậm được phát hiện và xử lý, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT

Năm năm qua, tỉnh ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề phát triển mạnh kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch đúng định hướng, quy mô kinh tế tăng lên đáng kể, tỉnh ta đã cơ bản ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu được thực hiện đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội XVII đề ra. Các ngành, thành phần, vùng kinh tế đều phát triển, nhất là ngành công nghiệp và Khu kinh tế Dung Quất phát triển mạnh, đã và đang là động lực to lớn, trực tiếp thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Lĩnh vực văn hoá - xã hội có bước chuyển biến tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Quốc phòng - an ninh được bảo đảm; chính trị - xã hội ổn định; lực lượng vũ trang được tăng cường. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên; các tổ chức trong hệ thống chính trị được kiện toàn và hoạt động có hiệu quả hơn. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.

Thành tựu trên là kết quả của sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của các bộ, ban, ngành Trung ương; là kết quả của quá trình phấn đấu nhiều nhiệm kỳ của Đảng bộ tỉnh, nhất là trong nhiệm kỳ vừa qua; sự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, hội, đoàn thể các cấp; sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân và  doanh nghiệp trong việc thực hiện chủ trương của Trung ương và Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ tỉnh.

Tuy nhiên, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mặt công tác vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém. Một số chỉ tiêu chủ yếu và chỉ tiêu ngành thực hiện chưa đạt. Kinh tế phát triển chưa thật bền vững; chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn thấp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn phát triển chậm; nông nghiệp phát triển chưa toàn diện; loại hình dịch vụ thiếu đa dạng; sản xuất giữa các vùng còn chênh lệch lớn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đồng bộ. Quản lý nhà nước về quy hoạch, bảo vệ tài nguyên, môi trường, đầu tư xây dựng cơ bản chưa theo kịp yêu cầu. Lĩnh vực văn hoá - xã hội phát triển chưa tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đời sống một bộ phận dân cư ở nông thôn, miền núi, vùng tái định cư còn nhiều khó khăn. Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn còn những yếu tố phức tạp; một số loại tội phạm, tai nạn giao thông và tệ nạn xã hội gia tăng. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các hội, đoàn thể còn có một số yếu kém chậm khắc phục.

Những khuyết điểm, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh tác động bất lợi nhưng chủ yếu bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan, đó là sự hạn chế về năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành, tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, hội, đoàn thể các cấp trong tỉnh; sự yếu kém về trách nhiệm, năng lực, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện 5 năm qua, Tỉnh uỷ khẳng định ba bài học kinh nghiệm được đúc kết từ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII vẫn còn nguyên giá trị, đồng thời nhấn mạnh một số kinh nghiệm sau:

- Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Tỉnh uỷ và các cấp ủy đảng là hạt nhân của sự đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong Đảng bộ, sự đồng thuận trong xã hội.

 - Kịp thời cụ thể hoá chủ trương của cấp trên và nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình thành nghị quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch công tác; có cơ chế, chính sách phù hợp, đồng bộ và kịp thời; tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm; lựa chọn đúng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đột phá, nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và những vấn đề bức xúc, phát sinh trong từng thời gian.

- Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức gắn với vai trò, trách nhiệm, sự gương mẫu của người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp là cơ sở tạo tính năng động, sáng tạo trong tham mưu, cũng như tổ chức thực hiện là sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ.

- Trong xây dựng, phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là bảo đảm an sinh xã hội; kịp thời phát hiện và chủ động giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc, bảo đảm quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị - xã hội.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

TRONG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015

Năm năm đến, nước ta nói chung, tỉnh ta nói riêng còn phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, bất ổn của tình hình chính trị và kinh tế thế giới. Tình trạng hoạt động của các loại tội phạm, nhất là tội phạm xuyên quốc gia, công nghệ cao ngày càng phức tạp. Tình trạng cạnh tranh tài nguyên, năng lượng, công nghệ, thị trường... và tranh chấp trên Biển Đông diễn ra gay gắt hơn. Trong khi đó, nội lực kinh tế của tỉnh còn yếu, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; ô nhiễm môi trường gia tăng; đời sống và sản xuất của nhân dân vùng miền núi, ven biển và hải đảo còn nhiều khó khăn; thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường; nguồn nhân lực nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, khoa học - công nghệ nói riêng còn những hạn chế nhất định.

Bên cạnh đó, tỉnh ta có những thời cơ, thuận lợi hết sức cơ bản. Năm năm đến, kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng. Vùng kinh tế trọng điểm các tỉnh duyên hải Miền Trung, trong đó có Quảng Ngãi sẽ luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư, hỗ trợ kịp thời của Trung ương. Những thành tựu tỉnh ta đã đạt được trong 20 năm qua, nhất là của giai đoạn 2006 - 2010 là tiền đề, động lực mạnh mẽ và trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2010 - 2015.

A. MỤC TIÊU

I. Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; bảo vệ tài nguyên, môi trường, tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; tạo nền tảng để đến năm 2020 Quảng Ngãi trở thành tỉnh công nghiệp.

II. Các chỉ tiêu chủ yếu:

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt 14 - 15 %/năm.

2. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 2.100 - 2.200 USD.

3. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2015: công nghiệp 61 - 62%; dịch vụ 25 - 26% ; nông nghiệp 12 - 13%.

4. Kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt trên 500 triệu USD.

5. Phấn đấu thực hiện vượt mức chỉ tiêu thu ngân sách Trung ương giao hàng năm.

6. Tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh đạt 20% vào năm 2015.

7. Tỷ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 giảm còn 47% tổng số lao động xã hội.

8. Phấn đấu đến năm 2015, có từ 20 - 22% số xã và 01 huyện đạt các tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

9. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, tăng thêm 15% số trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học so với năm 2010.

10. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đến năm 2015 đạt 45%.

11. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,92%/năm. Hạ tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 15%. Đến năm 2015 có 70% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.

12. Đến năm 2015 có 85% gia đình, 75% thôn, tổ dân phố, 95% cơ quan, trường học và 30% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn về văn hoá.

13. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 3,0 - 4,0%/năm (vùng đồng bằng giảm từ 2 - 3%/năm; vùng miền núi giảm 4 - 5%/năm).

14. Tỷ lệ độ che phủ rừng năm 2015 đạt 50%.

15. Đến năm 2015, có 90% hộ dân sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia; 100% khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị có hệ thống xử lý rác thải, nước thải tập trung; thu gom và xử lý chất thải công nghiệp nguy hại đạt 90%, chất thải y tế đạt 100%.

16. Xây dựng 90% xã, phường, thị trấn đạt danh hiệu vững mạnh về quốc phòng - an ninh, trong đó vững mạnh toàn diện đạt 50% vào năm 2015.

17. Bình quân hàng năm có 75% số tổ chức cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh và kết nạp 1.700 đảng viên.

B. CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU

I. Khai thác, phát huy mọi nguồn lực và lợi thế so sánh để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế nhanh và bền vững

1. Phát triển công nghiệp tiếp tục được xác định là nhiệm vụ đột phá.

Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17 - 18 %/năm. Tập trung phát triển công nghiệp ở Khu kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp và các cụm công nghiệp - làng nghề.

Phát huy tiềm năng về đất đai, tài nguyên, lao động, đặc biệt là lợi thế cảng biển nước sâu để phát triển các ngành công nghiệp nặng có ý nghĩa chiến lược, có giá trị gia tăng cao như: công nghiệp lọc hoá dầu, gia công kim loại, đóng tàu, khai khoáng, năng lượng điện...; đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ với các ngành sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu tại chỗ như: công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp dệt may, da giày, điện tử, tin học, vật liệu xây dựng và các ngành công nghiệp phụ trợ khác.

Phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng ở các cụm công nghiệp, làng nghề. Vừa chú trọng phát triển các ngành nghề mới vừa khôi phục các làng nghề, ngành nghề truyền thống có khả năng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ.

Chú trọng chất lượng phát triển, ưu tiên các ngành công nghiệp có công nghệ hiện đại, ít ô nhiễm, tiêu tốn ít năng lượng; các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu, giải quyết được nhiều việc làm cho lao động địa phương, góp phần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực, đẩy nhanh quá trình đô thị hoá trên địa bàn. Khuyến khích các cơ sở sản xuất đổi mới thiết bị, công nghệ, cải tiến quản lý sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và bảo vệ môi trường.

2. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân và nông thôn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian đến. 

Tập trung phát triển nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, thân thiện với môi trường. Phấn đấu đưa giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4 - 4,5%/năm; đến năm 2015, sản lượng lương thực đạt 470.000 tấn, giá trị sản xuất bình quân trên 01ha đất canh tác nông nghiệp đạt từ 40 đến 45 triệu đồng. Triển khai thực hiện chủ trương “dồn điền, đổi thửa”; bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, giống phù hợp với nhu cầu thị trường và giảm thiểu thiên tai, dịch bệnh; gắn kết chặt chẽ giữa trồng trọt, chăn nuôi với công nghiệp chế biến. Ổn định diện tích cây lương thực, nhất là diện tích lúa. Hình thành vành đai nông nghiệp, khu nông nghiệp công nghệ cao phục vụ các đô thị, Khu kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp; xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, chuyên canh phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại, kinh tế vườn, chuyển đổi vườn tạp thành vườn chuyên canh. Quy hoạch, phát triển sinh vật cảnh thành ngành kinh tế sinh thái có giá trị cao. Phát triển mạnh chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, đưa tỷ trọng chăn nuôi đạt 35% vào năm 2015.

Tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo quy hoạch. Đẩy mạnh phong trào trồng cây gây rừng kết hợp với khoanh nuôi, phục hồi, bảo vệ rừng, chú trọng rừng phòng hộ. Nghiên cứu, bổ sung những loại cây trồng, vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và tăng thu nhập cho người lao động.

Phát triển toàn diện ngành thuỷ sản, chú trọng nuôi trồng thủy sản trên các loại hình mặt nước (ngọt, lợ, mặn) theo hướng đa dạng hóa sản phẩm và thâm canh công nghiệp. Khuyến khích cải hoán và đóng mới tàu thuyền có công suất lớn. Hình thành các tổ chức đánh bắt và nuôi trồng hải sản xa bờ kết hợp với bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo và bảo vệ quyền lợi của ngư dân. Phát triển các cơ sở dịch vụ, hậu cần nghề cá, hiện đại hoá cơ sở chế biến, xây dựng doanh nghiệp mạnh trong chế biến và xuất khẩu thuỷ sản.

Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.

3. Phát triển mạnh dịch vụ, nhất là dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các loại hình dịch vụ phù hợp với nhu cầu và điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh. Phấn đấu giá trị dịch vụ tăng bình quân 15 - 16%/năm. Chú trọng phát triển mạnh các loại hình dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: dịch vụ tài chính, ngân hàng, thông tin và truyền thông, dịch vụ du lịch, vận tải, kho bãi, dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ… Phát triển dịch vụ thương mại phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng vùng. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các chợ ở nông thôn và miền núi. Khuyến khích phát triển các siêu thị, nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại ở thành phố Quảng Ngãi, Khu kinh tế Dung Quất và những nơi có điều kiện.

Tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ các khu, điểm du lịch, các cơ sở tham quan; gắn hoạt động du lịch với các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, nghỉ dưỡng. Mở rộng liên doanh, liên kết với bên ngoài để hình thành và phát huy hiệu quả các tuyến du lịch. Sớm hoàn thành các khu du lịch hiện có, phấn đấu có từ 01 đến 02 khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc gia. Tôn tạo, khai thác các di tích văn hoá, lịch sử và các loại hình văn hoá phi vật thể, xây dựng các sản phẩm du lịch có thương hiệu để phục vụ du khách.

4. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện tốt chủ trương của Trung ương, của tỉnh về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài cùng với nguồn lực tại chỗ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu đạt chỉ tiêu 500 triệu USD. Chủ động và tích cực triển khai các loại hình hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, nhận gia công; nghiên cứu khoa học, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; đào tạo nguồn nhân lực; chú trọng các loại hình dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là dịch vụ kho bãi, vận tải biển, tài chính, du lịch quốc tế,...

Chủ động, tăng cường phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung để đẩy mạnh công tác xúc tiến  thu hút các dự án đầu tư từ bên ngoài, đồng thời có cơ chế, chính sách phát huy mạnh tiềm năng, nguồn lực tại chỗ về vốn, đất đai, lao động để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt trên 160 nghìn tỷ đồng.

Thực hiện tốt công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách. Bảo đảm tăng thu bình quân hàng năm cao hơn chỉ tiêu thu ngân sách cấp trên giao; chi tiết kiệm, hiệu quả. Quản lý chặt chẽ, khai thác, tận dụng tối đa các nguồn thu để tăng chi cho đầu tư phát triển và bảo đảm an sinh xã hội. Xây dựng, phát triển thị trường tài chính, mở rộng các loại hình tín dụng, nâng cao chất lượng phục vụ của các ngân hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế.

5. Tập trung xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển.

Tăng cường đầu tư xây dựng đi đôi với nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng. Ưu tiên đầu tư hoàn thiện mạng lưới giao thông, xây dựng cảng biển Vạn Tường. Phát triển các công trình thủy điện và hệ thống truyền tải điện, hiện đại hoá hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, giải quyết tốt việc cấp thoát nước ở đô thị, khu kinh tế và các khu công nghiệp. Xây dựng đê, kè ven sông, ven biển, nhất là sông Trà Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ, Trà Câu nhằm chống sạt lở.

Tập trung xây dựng và hoàn thành dứt điểm những công trình kết cấu hạ tầng quan trọng. Phấn đấu trong nhiệm kỳ hoàn thành các công trình trọng điểm: đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh, đường Dung Quất - Trà Bồng - Trà My, đường tỉnh lộ 623, trường Đại học Phạm Văn Đồng, Đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc, trường Cao đẳng Kỹ nghệ.

Chỉ đạo thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư bền vững, đảm bảo đời sống của người dân sau khi tái định cư khá hơn trước. Phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư triển khai dự án mở rộng Nhà máy lọc dầu, sản xuất thép, nâng cấp trường Cao đẳng Tài chính - Kế toán thành trường Đại học, …

6. Phát triển các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.

Tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Phấn đấu đến năm 2015, số lượng doanh nghiệp toàn tỉnh tăng 2,5 đến 3 lần so với hiện nay.

Tập trung chỉ đạo đổi mới, nâng cao vai trò, vị trí của thành phần kinh tế nhà nước trên địa bàn. Đánh giá toàn diện hiệu quả kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp nhà nước sau khi sắp xếp, trên cơ sở đó tăng cường định hướng đổi mới quản lý, công nghệ, bảo đảm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; đa dạng hoá loại hình kinh tế hợp tác, phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã ở những nơi có điều kiện. Phát triển mạnh các hợp tác xã sản xuất kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Chú ý phát triển các loại hình dịch vụ mới, mở rộng liên kết, liên doanh với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần khác. Phấn đấu đến năm 2015, có 55% hợp tác xã đạt loại khá trở lên và hạ tỷ lệ hợp tác xã yếu kém xuống dưới 10%.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài  Chú trọng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là đầu tư trực tiếp của nước ngoài để phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Chú trọng phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và địa bàn nông thôn. 

7. Phát triển hài hòa, bền vững giữa các vùng, tạo sự liên kết, hỗ trợ trong quá trình phát triển.

 - Xây dựng, phát triển đô thị là nhiệm vụ đột phá mang tính chiến lược, tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Hình thành hệ thống đô thị đa cấp, phát huy thế mạnh của từng đô thị và cả hệ thống các đô thị làm cho đô thị thật sự trở thành vùng động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Tập trung đầu tư, chỉnh trang, nâng cấp và mở rộng Thành phố Quảng Ngãi theo quy hoạch nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2015, Thành phố Quảng Ngãi đạt tiêu chuẩn đô thị loại II.

Triển khai thực hiện quy hoạch mở rộng Khu kinh tế Dung Quất. Xây dựng Khu kinh tế Dung Quất trở thành thành phố trực thuộc tỉnh có công nghiệp, dịch vụ phát triển, có trung tâm lọc hoá dầu Quốc gia, có kiến trúc cảnh quan đẹp, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, theo hướng hiện đại. Trước mắt, tập trung xây dựng, phát triển đô thị Vạn Tường, đồng thời xây dựng một số đô thị vệ tinh khác để phát triển mạnh thương mại, dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Xây dựng, phát triển thị trấn Đức Phổ theo quy hoạch để trở thành thị xã vào năm 2015, hình thành trung tâm kinh tế, văn hoá vùng phía nam của tỉnh. Từng bước xây dựng thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá vùng phía tây của tỉnh. Quy hoạch, đầu tư mở rộng các thị trấn hiện có và xây dựng mới một số thị trấn ở các huyện, ưu tiên đầu tư đối với các huyện hiện chưa có thị trấn. Phấn đấu đến năm 2015, tất cả các huyện đều có thị trấn.

- Phát triển vùng đồng bằng, ven biển và hải đảo.

Phát triển nông nghiệp theo hướng thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm cây trồng, vật nuôi. Hình thành các vùng nguyên liệu có năng suất, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Sớm hình thành vành đai nông nghiệp chất lượng cao, an toàn phục vụ các khu công nghiệp và đô thị.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược biển Việt Nam, tạo bước phát triển mạnh về kinh tế biển. Chú trọng tăng năng lực khai thác, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản và phát triển các khu du lịch, loại hình dịch vụ du lịch biển, đảo. Hình thành hành lang kinh tế ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh. Tăng cường hệ thống kết cấu hạ tầng thuỷ sản, xây dựng cảng cá, trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá, các vũng neo đậu tàu thuyền; hình thành trung tâm cảnh báo cứu hộ thiên tai. Xây dựng Lý Sơn trở thành huyện đảo có kinh tế phát triển mạnh, gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

- Phát triển vùng miền núi.

Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả Nghị quyết 30a của Chính phủ gắn với xây dựng nông thôn mới và các chương trình, mục tiêu khác nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, từng bước thu hẹp sự chênh lệch về sản xuất và đời sống giữa các vùng. Hình thành cơ cấu kinh tế phù hợp; chú trọng phát triển lâm nghiệp, kết hợp kinh tế vườn rừng gắn với chăn nuôi; thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, cá nhân để trồng rừng và bảo vệ rừng, chú trọng rừng đầu nguồn. Khai thác hợp lý, có hiệu quả tiềm năng thuỷ điện, khoáng sản; đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ. Tiếp tục đầu tư xây dựng các thị trấn, củng cố các trung tâm cụm xã. Tăng cường xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực; phát triển văn hoá, thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội đối với đồng bào miền núi; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.

8. Quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên; tăng cường quản lý, bảo vệ và cải thiện môi trường.

Chú trọng công tác lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng các nguồn tài nguyên trên địa bàn, nhất là tài nguyên đất, nước, biển, rừng, khoáng sản quý hiếm.

Tập trung đúng mức công tác bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh áp dụng công nghệ sạch. Cơ bản hoàn thành việc xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước ở các đô thị và khu công nghiệp; không để xả nước thải công nghiệp chưa qua xử lý. Tăng cường thu gom và xử lý rác thải, chất thải rắn. Có chế tài xử lý nghiêm khắc các vi phạm về bảo vệ môi trường. Tranh thủ nguồn vốn đầu tư, thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Chú trọng công tác phòng, chống cháy nổ; chủ động phòng, ứng phó sự cố tràn dầu ở Khu kinh tế Dung Quất.

II. Phát triển mạnh giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; chăm lo sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao; thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.

1. Nâng cao chất lượng giáo dục -  đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ đột phá đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, bậc học; chú trọng giáo dục mầm non. Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học. Tiếp tục củng cố kết quả xoá mù chữ, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở một cách bền vững và từng bước thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội, phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo có đạo đức tốt, bảo đảm về số lượng và chất lượng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong giáo dục và đào tạo. Thực hiện tốt các chính sách đối với học sinh là người dân tộc thiểu số, hỗ trợ, giúp đỡ học sinh nghèo học giỏi và học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo, nhất là đối với các huyện miền núi; đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo, động viên các nguồn lực trong xã hội, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội để mọi người được học tập suốt đời.

Tăng cường đầu tư, tập trung phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao, là yếu tố quyết định sự thành công của phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Bảo đảm định hướng phát triển ngành, nghề đào tạo phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của khu vực, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng lao động. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ, phù hợp với trình độ phát triển từng lĩnh vực, từng thời kỳ. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học - công nghệ và đội ngũ lao động có tay nghề cao; chú trọng khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo và đối tượng thanh niên, học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông và bộ đội xuất ngũ. Nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo hiện có; đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở đào tạo, dạy nghề một cách hợp lý.

2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ.

Nâng cao tiềm lực, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ của tỉnh theo hướng tăng đầu tư ngân sách, đi đôi với đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động các nguồn lực xã hội, mở rộng hợp tác với bên ngoài, hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.

Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống để nâng cao chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Chú trọng triển khai các chương trình nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, miền núi và các ngành ưu tiên phát triển. Tổng kết thực tiễn, nâng cao năng lực dự báo, nghiên cứu xây dựng các đề tài khoa học nhằm cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, nhất là các vấn đề trọng yếu trong phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích đổi mới thiết bị, công nghệ trong doanh nghiệp; phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp công nghệ cao để tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, có khả năng cạnh tranh mạnh tham gia thị trường trong nước, xuất khẩu và góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường. Mở rộng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong các doanh nghiệp. Phấn đấu có 55% doanh nghiệp sản xuất công nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến.

3. Tăng cường xây dựng hạ tầng thông tin và truyền thông, tạo môi trường để từng bước hình thành, phát triển kinh tế tri thức.

Tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất lượng hoạt động các loại hình báo chí, trọng tâm là Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Quảng Ngãi. Chú trọng tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cổ vũ kịp thời các phong trào thi đua yêu nước.

Hoàn thiện kết cấu hạ tầng bưu chính viễn thông theo hướng hiện đại; tăng cường sử dụng kết cấu hạ tầng dùng chung nhằm bảo đảm tính hiệu quả và mỹ quan đô thị. Quy hoạch và phát triển ngành in đáp ứng nhu cầu trong tỉnh.

Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, tăng nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực đời sống xã hội, xây dựng nền hành chính điện tử nhằm đáp ứng thông tin trong lãnh đạo, quản lý và nhu cầu thông tin đa dạng của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2015, có 100% huyện, thành phố ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ lãnh đạo, quản lý; 60% xã, phường, thị trấn được khai thác thông tin khoa học, công nghệ qua mạng internet; có 85% hộ gia đình tiếp cận được thông tin qua các phương tiện thông tin và truyền thông. Đồng thời có biện pháp quản lý việc sử dụng internet, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.

Gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng hạ tầng thông tin và truyền thông với nhiệm vụ phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để từng bước hình thành, phát triển kinh tế tri thức.

4. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.

 Nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, tinh thần thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ y tế; đảm bảo trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Kết hợp tốt giữa tây y với đông y trong khám, chữa bệnh; có giải pháp đào tạo, thu hút đủ số lượng và ổn định đội ngũ bác sỹ phục vụ ở các tuyến, nhất là tuyến cơ sở. Tiếp tục đầu tư ngân sách gắn với đẩy mạnh xã hội hoá để xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới y tế trên tất cả các tuyến; chú trọng đầu tư trang thiết bị cho Bệnh viện đa khoa tỉnh và các bệnh viện chuyên khoa; xây dựng mới một số bệnh viện chuyên khoa cấp tỉnh; nâng cấp và xây dựng các bệnh viện, trung tâm y tế cấp huyện, trạm y tế cấp xã đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh tại cơ sở. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 5,5 bác sĩ/vạn dân; 18,7 giường bệnh/vạn dân.

Tăng cường năng lực của hệ thống y tế dự phòng trong thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; kịp thời dự báo, phát hiện và chủ động phòng, chống có hiệu quả dịch bệnh. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm; quản lý chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chất lượng dân số, sinh đẻ có kế hoạch; chủ động ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính. Tăng cường giáo dục, tư vấn về dân số, sức khoẻ sinh sản và giới tính cho thanh, thiếu niên. Triển khai thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; phòng, chống bạo lực gia đình. Đẩy mạnh phong trào nuôi con khoẻ, dạy con ngoan; bảo đảm các quyền của trẻ em, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tích cực phòng, chống xâm hại trẻ em.

5. Chăm lo phát triển văn hoá, thể dục thể thao.

 Tập trung xây dựng đời sống văn hoá, đưa phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng gia đình, thôn, tổ dân phố, cơ quan văn hoá, làm cho giá trị văn hoá thấm sâu vào đời sống xã hội. Tăng cường công tác quản lý, phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, các hoạt động mê tín, dị đoan, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang. Triển khai thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam, xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.

Xây dựng và nâng cao hiệu quả của các thiết chế văn hoá từ tỉnh đến cơ sở. Chú trọng bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có không gian văn hóa cồng chiêng Miền Tây Quảng Ngãi, gắn kết với phát triển du lịch, khai thác, phát huy các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể. Mở rộng và tăng cường hiệu quả hợp tác, giao lưu văn hoá với bên ngoài gắn với đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động văn hoá. Chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo; có chính sách hỗ trợ phát triển các giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Tiếp tục phát triển văn học, nghệ thuật; chú ý phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng. Tạo điều kiện thuận lợi nhằm phát huy tiềm năng sáng tạo của văn nghệ sỹ để có những tác phẩm có giá trị cao.

Phát triển và nâng cao chất lượng phong trào thể dục, thể thao quần chúng, phấn đấu đến năm 2015 có 30% dân số và 20% gia đình tập luyện thể thao thường xuyên. Đẩy mạnh xã hội hoá thể dục thể thao, đầu tư xây dựng các cơ sở thể dục, thể thao đáp ứng nhu cầu luyện tập, giao lưu, thi đấu và vui chơi, giải trí của nhân dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ huấn luyện viên, vận động viên để nâng cao thành tích thi đấu thể thao, nhất là những môn thể thao thành tích cao mà tỉnh có lợi thế.

6. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong quá trình phát triển kinh tế.

Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm và giảm nghèo. Gắn phát triển kinh tế với thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, tạo việc làm mới; đồng thời chú trọng hơn kết quả công tác xuất khẩu lao động. Hằng năm, giải quyết việc làm mới và tạo thêm việc làm cho khoảng 38.000 lao động. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tại chỗ, đồng thời quan tâm xây dựng quan hệ lao động hài hoà, tiến bộ, công bằng trong doanh nghiệp. Tập trung triển khai đồng bộ chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững ở 06 huyện miền núi, các chương trình 134, 135 giai đoạn 2, chương trình hỗ trợ các xã bãi ngang, ven biển, các chương trình mục tiêu quốc gia.

Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách của Nhà nước đi đôi với đẩy mạnh phong trào "đền ơn, đáp nghĩa" nhằm chăm lo tốt hơn đời sống của người có công với cách mạng. Thực hiện tốt các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội; quan tâm chăm sóc, giúp đỡ các đối tượng chính sách xã hội.

III. Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nội chính

Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao nhận thức về âm mưu "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia ... làm cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong tình hình mới.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, thành phố cơ bản, liên hoàn vững chắc; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng quy hoạch, kế hoạch phát triển, chú trọng địa bàn Khu kinh tế Dung Quất, vùng miền núi và biển, đảo.

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, gắn bó mật thiết với nhân dân; xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, công an xã, bảo vệ dân phố, tổ chức quần chúng tự quản về an ninh trật tự, đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Hàng năm, thực hiện đạt 100% các chỉ tiêu giao quân, huy động lực lượng dự bị động viên, giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ổn định từ 1,3 đến 1,5% dân số.

Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ. Tập trung chỉ đạo giữ gìn trật tự an toàn xã hội, kiềm chế sự gia tăng và từng bước đẩy lùi các loại tội phạm, tai nạn giao thông. Phát huy tốt vai trò của các lực lượng vũ trang trong công tác tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai.

Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan nội chính, tạo bước chuyển biến cơ bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả trong tổ chức, hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho nhân dân. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đẩy mạnh công tác thanh tra, nhất là ở các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp về công tác tiếp dân, hoà giải ở cơ sở và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

IV. Xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh

Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội tại tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan chính quyền các cấp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh. Lãnh đạo chính quyền các cấp kịp thời cụ thể hoá chủ trương của cấp trên, thể chế hóa chủ trương của cấp uỷ cùng cấp thành các văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện đạt kết quả.

Tiếp tục nâng cao chất lượng các kỳ họp, chất lượng thẩm tra, giám sát, tham vấn của Hội đồng nhân dân và công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục gây phiền hà cho tổ chức và công dân; nâng cao chất lượng cơ chế một cửa, đẩy mạnh áp dụng cơ chế một cửa liên thông. Đánh giá kết quả thực hiện các nghị định của Chính phủ, trên cơ sở đó, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế, chức năng nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong công tác tham mưu và trong tổ chức thực hiện.

Thực hiện phân cấp, uỷ quyền, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và đội ngũ cán bộ, công chức; kịp thời phát huy nhân tố tích cực, phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, kiên quyết thay thế những cán bộ, công chức, viên chức không đảm bảo phẩm chất đạo đức, năng lực công tác. Đẩy mạnh thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, quy chế dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp; bảo đảm điều kiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa; tập trung phát hiện, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, đồng thời bảo vệ, khen thưởng kịp thời những người tố cáo và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân.

­­­­­­­­­­­­­­­V. Tăng cường công tác dân vận, mặt trận, các hội, đoàn thể nhân dân, phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao sự đồng thuận xã hội, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong cộng đồng. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên phải coi trọng công tác vận động quần chúng; chăm lo kiện toàn củng cố về tổ chức và cán bộ, định hướng nội dung hoạt động, đồng thời chủ động phối hợp, tạo mọi thuận lợi về cơ sở vật chất và kinh phí để mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả quy chế công tác dân vận trong hệ thống chính trị, quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, công tác tôn giáo. Đẩy mạnh công tác vận động thanh niên, phụ nữ, nông dân, công nhân và đội ngũ trí thức, phát huy vai trò của cựu chiến binh trong tham gia xây dựng quê hương, đất nước thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Xây dựng cơ chế thích hợp để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền các cấp, thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho đoàn viên, hội viên, nhân dân; tham gia xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo mặt trận, các hội, đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng bám sát nhiệm vụ chính trị, phù hợp với đặc điểm của từng hội, đoàn thể, động viên được đông đảo quần chúng tham gia, đáp ứng lợi ích thiết thực của hội, đoàn viên và nhân dân. Chỉ đạo đẩy mạnh Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" làm cho các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới hoạt động công tác dân vận, mặt trận, các hội, đoàn thể nhân dân theo hướng sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của dân để động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

VI. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ

1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng gắn với rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Nâng cao chất lượng tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, truyền thống vẻ vang của Đảng, truyền thống dân tộc và của quê hương. Trước hết, quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả công tác tư tưởng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng và báo cáo viên các cấp; chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công dân ở trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố và hệ thống giáo dục trong tỉnh. Chú trọng đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cán bộ, đảng viên; chống những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phản động, góp phần làm thất bại chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo đúng diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; kịp thời định hướng dư luận, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.

Xây dựng quy chế đối thoại của cấp ủy đảng, trong đó quy định rõ trách nhiệm người đứng đầu phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan làm công tác tư tưởng trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của nhân dân. Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động các cơ quan truyền thông, báo chí, phát huy mạnh mẽ tính tích cực, đồng thời đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực này.

Tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng các gương điển hình tiêu biểu, đưa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thành nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân; gắn thực hiện Cuộc vận động này với công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ chính trị ở từng địa phương, đơn vị. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, coi trọng việc lấy ý kiến góp ý của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phải là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống; đi đầu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.

2. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức xây dựng Đảng, chú trọng công tác cán bộ, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.

Thường xuyên kiện toàn bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, nhất là kiện toàn cấp uỷ và các cơ quan tham mưu. Kịp thời ban hành và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp uỷ, quy chế phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; phấn đấu trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm bảo đảm tính kế thừa và phát triển. Chú trọng tất cả các khâu tuyển dụng, đánh giá, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và chính sách cán bộ.

Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ. Cán bộ được tuyển dụng phải đạt tiêu chuẩn chức danh và ngạch, bậc cần tuyển. Thực hiện nghiêm túc quy chế, quy trình đánh giá cán bộ, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Rà soát, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ theo hướng tăng chất lượng, đảm bảo hợp lý giữa các chức danh lãnh đạo, quản lý, các ngạch, bậc cán bộ, công chức, viên chức. Kịp thời bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ; đồng thời thực hiện nghiêm chế độ miễn nhiệm, từ chức, thôi việc; kiên quyết thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ các cấp, các ngành, bảo đảm tính khả thi, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ khoa học công nghệ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ diện quy hoạch, cán bộ có trình độ sau đại học; chú trọng đào tạo, chuẩn hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Phấn đấu đến năm 2015: 100% cán bộ từ trưởng phòng cấp huyện trở lên có trình độ đại học chuyên môn, trình độ cao cấp lý luận chính trị; 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã thuộc các huyện đồng bằng có trình độ cao đẳng chuyên môn và trung cấp lý luận chính trị trở lên; 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã thuộc các huyện miền núi, hải đảo có trình độ trung cấp chuyên môn và trung cấp lý luận chính trị trở lên.

Tiếp tục luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch, chú ý luân chuyển, điều động số cán bộ đã có nhiều năm công tác ở một vị trí công việc có tính nhạy cảm. Thực hiện tốt các chính sách cán bộ đã ban hành, tiếp tục nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích cán bộ về công tác ở các địa bàn khó khăn, miền núi và hải đảo.

Thực hiện nghiêm túc các quy định của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là nắm và giải quyết kịp thời vấn đề chính trị hiện nay.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (Khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tổ chức thực hiện đúng các quy định về chức năng, nhiệm vụ và quy chế làm việc của cấp uỷ; thực hiện phân công nhiệm vụ rõ ràng cho cấp uỷ viên và cán bộ, đảng viên; tập trung chỉ đạo củng cố những tổ chức cơ sở đảng yếu kém, nâng cao tỉ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác quản lý, xây dựng đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu, năng động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đưa ra khỏi Đảng những đảng viên vi phạm theo quy định của Điều lệ Đảng. Đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên mới, chú trọng chất lượng và có cơ cấu hợp lý. Phấn đấu tất cả các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và phần lớn doanh nghiệp có đảng viên và tổ chức đảng.

3. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Các cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp phải thực hiện công tác kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế của Đảng; chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; công tác tổ chức, cán bộ; quản lý tài chính; đầu tư xây dựng cơ bản; thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; việc chỉ đạo cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận xã hội. Chú trọng kiểm tra, giám sát tập thể lãnh đạo và người đứng đầu của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp đối với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Qua kiểm tra, giám sát kịp thời phát huy, biểu dương các tổ chức đảng, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát hiện xử lý nghiêm minh và công khai những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước và các cơ quan tư pháp, với công tác giám sát của hội đồng nhân dân, mặt trận, các hội, đoàn thể theo đúng chức năng, thẩm quyền. Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò mặt trận, hội, đoàn thể và nhân dân trong việc tham gia giám sát đảng viên, công tác cán bộ và xây dựng Đảng.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp; hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc kiểm tra và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên.

4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng.

Kịp thời cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các nghị quyết của BCH Trung ương (khoá XI), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII thành các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động để lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện đạt kết quả. Đổi mới cách ra nghị quyết; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện các mặt công tác, chú trọng các nhiệm vụ đột phá, các nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc để chủ trương của Đảng trở thành hiện thực.

Xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo các cấp uỷ đảng, bảo đảm thực hiện đúng vai trò lãnh đạo, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức chính quyền, mặt trận và các hội, đoàn thể nhân dân.

Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với nâng cao trách nhiệm cá nhân phụ trách, nhất là người đứng đầu cấp uỷ. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước, mặt trận, hội, đoàn thể nhân dân. Tăng cường công tác thực tế, giảm bớt thủ tục giấy tờ, hội họp, hướng mạnh về cơ sở, nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.

C. THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ CÁC GIẢI PHÁP LỚN

1. Tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo và ưu tiên nguồn lực để thực hiện tốt ba nhiệm vụ đột phá.

Trong điều kiện nguồn lực đầu tư còn có hạn, cần phải tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cả hệ thống chính trị, ưu tiên nguồn lực để thực hiện tốt ba nhiệm vụ đột phá: phát triển công nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, phát triển đô thị là vấn đề có tính quyết định để thực hiện thắng lợi mục tiêu, các chỉ tiêu và nhiệm vụ chủ yếu trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

2. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch và quản lý tốt việc triển khai thực hiện quy hoạch.

Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, khẩn trương xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành, vùng kinh tế; quy hoạch tổng thể hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh; quy hoạch nâng cấp, mở rộng và phát triển Khu kinh tế Dung Quất, các đô thị... Chú trọng nâng cao chất lượng các quy hoạch, đồng thời quản lý và tổ chức thực hiện các quy hoạch đã được phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được đồng bộ và đạt hiệu quả cao.

3. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

 Tiếp tục thực hiện tốt các cơ chế, chính sách hiện có, đồng thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và ban hành một số cơ chế, chính sách mới nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội trên địa bàn phát triển.

Sớm xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút, huy động nhân, tài, vật lực; thu hút các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; hỗ trợ ngư dân hành nghề trên biển khi gặp rủi ro; chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, đổi mới, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại; quản lý tài chính, dự án đầu tư, tài nguyên và xử lý tình trạng vi phạm gây ô nhiễm môi trường, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên; tạo lập môi trường phát triển các thành phần kinh tế; đẩy mạnh xã hội hoá trên các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hoá, thể thao và thực hiện các mục tiêu về an sinh xã hội...

4. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp cùng với đào tạo, phát triển, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nhân lực; thu hút và ưu đãi nhân tài, đội ngũ cán bộ có trình độ cao, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương, nhất là cơ chế đặc thù điều tiết nguồn thu từ Khu kinh tế Dung Quất cho ngân sách tỉnh để đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng kết cấu hạ tầng... Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút mạnh vốn ODA, FDI gắn kết với khai thác, thu hút vốn các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Đồng thời phát triển đồng bộ các loại thị trường, nhất là thị trường tài chính, tín dụng, thị trường bất động sản để đáp ứng nhu cầu về nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Đi đôi với việc sử dụng hợp lý nguồn lực, cần quản lý chặt chẽ và thực hiện lồng ghép các nguồn vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn, các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước với vốn huy động từ các thành phần kinh tế một cách hợp lý để đầu tư phát triển; khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, bảo đảm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.

5. Chủ động phòng tránh thiên tai, tăng cường bảo vệ môi trường.

Thực hiện có hiệu quả phương án phòng, chống lụt bão; phòng, chống cháy rừng. Xây dựng các công trình phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, nhất là trạm tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở Lý Sơn, hệ thống đê kè, xử lý sạt lở ven sông, ven biển, sạt lở núi và các khu tái định cư để di chuyển dân ở những vùng thường bị ngập lũ, sạt lở nặng. Đánh giá tác động môi trường đối với các dự án quy hoạch và các dự án đầu tư. Giám sát và xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm quy trình xử lý khí thải, rác thải, nước thải để bảo đảm môi trường sinh thái bền vững.

6. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Ổn định chính trị - xã hội vừa là mục tiêu, vừa là tiền đề trực tiếp của sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Do đó, cần phải giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ và tổ chức đảng, nâng cao hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền, phát huy dân chủ rộng rãi, tạo sự đồng thuận trong xã hội; đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, mặt trận, các hội, đoàn thể nhân dân trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ. Tăng cường lãnh đạo toàn diện đối với lực lượng vũ trang; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ nhân dân; xử lý có hiệu quả những vấn đề phức tạp phát sinh, không để xảy ra điểm nóng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Với tinh thần đoàn kết, dân chủ, trí tuệ, kế thừa, đổi mới và phát triển, toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh ra sức nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra, tạo nền tảng để đến năm 2020 Quảng Ngãi trở thành tỉnh công nghiệp.

 

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH  KHÓA XVII