Xuất bản thông tin Xuất bản thông tin

VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XX

Xem với cỡ chữ Tương phản

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIX trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX

Th 6, 25/12/2020 | 09:46 SA

XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ANH HÙNG, SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT; ĐỔI MỚI SÁNG TẠO; BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH, ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI; PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG, PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 2025, TRỞ THÀNH TỈNH PHÁT TRIỂN KHÁ CỦA VÙNG MIỀN TRUNG

---

Phần thứ nhất

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XIX

Đảng bộ, quân và dân tỉnh Quảng Ngãi thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX (sau đây viết tắt là Nghị quyết XIX) trong bối cảnh có nhiều thuận lợi: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế; toàn cầu hóa, cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ; thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao sau 35 năm đổi mới; nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và kinh nghiệm quý báu trong 30 năm tái lập tỉnh được kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, tỉnh ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Biến đổi khí hậu gia tăng; tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp; tác động của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19 trong năm 2020 và giá dầu giảm sâu so với đầu nhiệm kỳ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã đoàn kết, lãnh đạo quân và nhân dân tỉnh nhà nỗ lực thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đạt một số kết quả quan trọng. 

I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Kinh tế tiếp tục phát triển; quy mô tổng sản phẩm tăng khá

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 4,83%/năm[1] (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX, thấp hơn mức bình quân cả nước); nếu không tính sản phẩm lọc dầu thì tăng bình quân 8,5%/năm. Năm 2020, GRDP của tỉnh ước đạt 82.593 tỷ đồng (giá hiện hành), gấp 1,36 lần so với năm 2015; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 53,14%, dịch vụ chiếm 28,35%, nông nghiệp chiếm 18,51% (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX); GRDP bình quân đầu người ước đạt 2.791 USD, gấp 1,2 lần so với năm 2015 (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX, thấp hơn mức bình quân cả nước). Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn trong 5 năm ước đạt 90.175 tỷ đồng, bằng 107,7% so với mục tiêu Trung ương giao (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi cân đối ngân sách nhà nước tăng[2].

1.1. Thực hiện nhiệm vụ đột phá phát triển công nghiệp đạt một số kết quả quan trọng

Công nghiệp đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 132.965 tỷ đồng, tăng bình quân 4,49%/năm (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX); nếu không tính giá trị sản phẩm lọc dầu thì tăng 24,68%/năm (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX). Giá trị tăng thêm công nghiệp ước đạt 27.733 tỷ đồng, tăng bình quân 4,76%/năm (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX); nếu không tính sản phẩm lọc hóa dầu thì tăng bình quân 20,16%/năm. Tỷ lệ lao động công nghiệp - xây dựng trong tổng lao động chiếm 32% (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX).

Giá trị sản xuất các nhóm ngành công nghiệp đều có mức tăng khá[3]. Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào công nghiệp lọc, hóa dầu[4]. Công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ lực trong tăng trưởng công nghiệp[5]; trong đó, công nghiệp luyện kim, sản xuất kim loại hình thành và phát triển rõ nét với quy mô lớn gắn với cảng nước sâu Dung Quất. Công nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị, linh kiện điện tử,... phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu có mức tăng trưởng cao. Công nghiệp chế biến thực phẩm, nước uống phát triển mạnh. Công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may có bước phát triển gắn với Khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn phát triển khá.

Khu Kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển, thu hút được nhiều dự án, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động[6]. Đã tập trung hỗ trợ tháo gỡ vướng mắc để đẩy nhanh tốc độ phát triển Khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi. Triển khai xây dựng một số khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án. Chủ trương quy hoạch Trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu Kinh tế Dung Quất đã được Thủ tướng Chính phủ thống nhất. Đã thu hút dự án thép Hòa Phát Dung Quất thay thế dự án thép Quảng Liên Dung Quất không thực hiện trong nhiều năm.

1.2. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là ở miền núi đạt kết quả tích cực

Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng trưởng ổn định, bình quân tăng 4,22%/năm, cao hơn so với bình quân cả nước (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX). Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động còn khoảng 45,58% (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Đã tập trung tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ban hành một số chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư và bố trí nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới[7]. Nhiều công trình thủy lợi được đầu tư, nâng cấp[8]. Thực hiện dồn điền, đổi thửa đạt kết quả bước đầu. Sản lượng, năng suất cây trồng, vật nuôi và giá trị sản xuất bình quân 01 ha đất nông nghiệp tiếp tục được nâng lên[9]. Nông nghiệp từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao. Đã thu hút được một số dự án sản xuất nông nghiệp sạch, công nghệ cao, hữu cơ, nhất là ở huyện Mộ Đức; bước đầu hình thành được một số mô hình liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp; một số sản phẩm được xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý. Kinh tế trang trại, kinh tế vườn rừng có bước phát triển.

Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng được chú trọng. Năm 2020, diện tích rừng tăng thêm 36.684 ha so với năm 2015, tăng bình quân 2,35%/năm; tỷ lệ che phủ rừng năm 2020 đạt 52% (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Đã ban hành chính sách khuyến khích trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn, gỗ nguy cấp, quý hiếm; đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho các tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng. Ngành thủy sản tiếp tục phát triển; giá trị sản xuất tăng bình quân 6,9%/năm. Một số loài thủy sản mới có giá trị kinh tế cao được đưa vào nuôi trồng thành công[10]. Số lượng tàu có công suất lớn tiếp tục tăng. Hạ tầng nghề cá được đầu tư, nâng cấp.

Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực. Nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Đến cuối năm 2020, toàn tỉnh dự kiến có 89 xã và 03 huyện đạt chuẩn nông thôn mới[11] (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX), 12 khu dân cư nông thôn kiểu mẫu.

Giảm nghèo đạt một số kết quả khá. Đã tập trung đầu tư hạ tầng thiết yếu[12]; thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ làm nhà ở, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, dạy nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ bảo hiểm y tế,…; ưu tiên bố trí các nguồn vốn từ các chương trình, dự án để phát triển sản xuất, cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập[13], giảm nghèo bền vững. Một số chính sách hỗ trợ, thúc đẩy giảm nghèo bền vững được ban hành và triển khai thực hiện, trong đó có thí điểm thực hiện chính sách khuyến khích hộ nghèo tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị để tăng thu nhập và vươn lên thoát nghèo bền vững ở huyện Tây Trà và Sơn Tây[14]. So với đầu nhiệm kỳ, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 13,6% xuống còn 6,07% (cao hơn cả nước), bình quân hàng năm giảm 1,82% (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Trong đó, khu vực miền núi, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 41,93% xuống còn 20,52%, bình quân giảm 5,25%/năm (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX), huyện Sơn Hà được công nhận thoát nghèo; khu vực đồng bằng, bình quân hàng năm giảm 1,1%, ước đến cuối năm 2020 còn 3,02% hộ nghèo (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX).

1.3. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm phát triển dịch vụ, du lịch và kinh tế biển, đảo đạt một số kết quả bước đầu

Giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 5,16%/năm (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2020 ước đạt 52.495 tỷ đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2015 (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Dịch vụ phát triển đúng định hướng, tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu kinh tế; nhiều dịch vụ có mức tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải phát triển nhanh[15]; các tuyến xe buýt được mở đến tất cả các huyện, thị xã. Dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Dịch vụ tài chính, ngân hàng phát triển ổn định; dư nợ tín dụng tăng trưởng khá, bình quân 13%/năm. Dịch vụ phân phối, thương mại phát triển mạnh; hệ thống chợ truyền thống được đầu tư, nâng cấp, một số chợ được doanh nghiệp đầu tư, quản lý; một số siêu thị, trung tâm thương mại hiện đại được đầu tư, đi vào hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Hoạt động xuất khẩu có chuyển biến; năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1,15 tỷ USD, gấp 2,9 lần so với năm 2015 (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX).

Du lịch có bước phát triển, nhất là du lịch biển, đảo, nghỉ dưỡng, sinh thái. Hạ tầng du lịch từng bước được đầu tư, nâng cấp; số lượng cơ sở lưu trú ngày càng tăng. Một số khu, điểm du lịch mới được đầu tư, đưa vào khai thác. Bước đầu đã thu hút được một số dự án đầu tư có quy mô lớn, được kỳ vọng tạo ra đột phá cho phát triển du lịch của tỉnh.

 Kinh tế biển tiếp tục phát triển. Giá trị sản xuất của các huyện ven biển và huyện đảo Lý Sơn bình quân tăng 13,8%/năm. Các ngành kinh tế biển, ven biển, nhất là lọc, hóa dầu, công nghiệp chế biến, chế tạo dựa trên ưu thế của cảng biển nước sâu, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản có bước phát triển. Kết cấu hạ tầng khu vực ven biển, đảo tiếp tục được đầu tư, từng bước hoàn thiện. Các vấn đề xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh được chú trọng. Các giải pháp phát triển bền vững huyện đảo Lý Sơn được tích cực thực hiện; huyện Lý Sơn từng bước trở thành điểm du lịch thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.

1.4. Thực hiện nhiệm vụ đột phá đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị đạt nhiều kết quả quan trọng

Hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được ưu tiên nguồn lực đầu tư, hoàn thiện[16]. Một số dự án lớn đề ra trong Nghị quyết XIX và các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy như: cầu Cửa Đại, cầu Thạch Bích, đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Quốc lộ 1 (đoạn Dốc Sỏi - Khu công nghiệp VSIP), Quốc lộ 24 (đoạn Phổ Phong - Ba Tơ), đường Trì Bình - Dung Quất (giai đoạn 1), cảng Bến Đình, Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện Y học Cổ truyền được đầu tư, đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một số dự án khác như: Đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc, đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh (giai đoạn 2a) đang được tập trung thực hiện. Hạ tầng giao thông, điện, thủy lợi, Khu Kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, giáo dục, y tế, văn hóa, du lịch, khoa học, công nghệ được quan tâm đầu tư. Đến nay, có 98,3% đường tỉnh, 77,2% đường huyện, 68,2% đường xã, 41,6% đường giao thông nông thôn được nhựa hóa, cứng hóa; 100% xã phủ lưới điện quốc gia; 48% chiều dài kênh mương được kiên cố hóa.

Đô thị có bước phát triển. Huyện Đức Phổ đã trở thành thị xã. Các công trình thiết yếu ở từng đô thị được quan tâm đầu tư; chỉnh trang đô thị được chú trọng. Một số khu đô thị và khu dân cư mới đã và đang được xây dựng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở của người dân. Đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hóa toàn tỉnh ước đạt 24,5% (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX, thấp hơn cả nước).

1.5. Môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện; công tác xúc tiến đầu tư có đổi mới, huy động được nhiều nguồn lực đầu tư; các thành phần kinh tế được thúc đẩy phát triển

Nhiều thủ tục về đầu tư, kinh doanh được đơn giản hóa, công khai, minh bạch. Đã đầu tư, đưa Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đi vào hoạt động, góp phần rút ngắn thời gian, giảm phiền hà trong giải quyết các thủ tục đầu tư, kinh doanh cho doanh nghiệp, công dân. Hoạt động đối thoại, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên. Tổ chức được một số hoạt động khuyến khích khởi nghiệp.

Xúc tiến đầu tư có đổi mới, được tổ chức với nhiều phương thức, trong đó chú trọng phương thức gặp gỡ trực tiếp các nhà đầu tư lớn để mời gọi, thu hút đầu tư. Tính đến tháng 6/2020, đã cấp chủ trương đầu tư 524 dự án trong nước, 41 dự án FDI, trong đó có một số dự án quy mô lớn, góp phần giải quyết việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng nhanh, tổng vốn huy động 5 năm ước đạt 143.558 tỷ đồng (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX); trong đó, nguồn vốn đầu tư công do tỉnh quản lý khoảng 22.573 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng cao, tăng từ khoảng 59% năm 2015 lên khoảng 78% năm 2020.

Doanh nghiệp nhà nước được tái cơ cấu theo kế hoạch. Doanh nghiệp ngoài nhà nước tiếp tục phát triển[17]. Kinh tế tập thể có chuyển biến; các hợp tác xã được tổ chức lại, từng bước hoạt động theo cơ chế thị trường.

1.6. Quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu được tăng cường

Đã điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) của các huyện, thành phố. Cơ bản hoàn thiện cơ sở dữ liệu địa chính. Thực hiện cấp quyền khai thác khoáng sản thông qua đấu giá. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường được tăng cường. Chất lượng môi trường sống từng bước được nâng lên. Đa phần người dân, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, khan hiếm nước ngầm đã được sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh. Tỷ lệ dân cư đô thị được dùng nước sạch đạt 89%; tỷ lệ dân cư nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 95%, trong đó có sử dụng nước sạch đạt 50% (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Vệ sinh môi trường, xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại, chất thải rắn y tế được quan tâm. Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia đạt 60% (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX); tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 90% (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX). Đã hoàn thành xử lý ô nhiễm môi trường tại 06/06 kho thuốc bảo vệ thực vật. Đưa vào vận hành hệ thống tiếp nhận số liệu quan trắc môi trường tự động; cơ bản giám sát tình hình xả thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh có lưu lượng xả thải lớn. Công tác ứng phó thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu được quan tâm.

1.7. Công tác lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch đạt một số kết quả; ban hành nhiều chính sách tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội

Công tác lập, phê duyệt quy hoạch cơ bản bám sát quy định của Nhà nước, khai thác được các tiềm năng, lợi thế, tạo cơ sở để quản lý, định hướng đầu tư, phát triển. Đã điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của một số địa phương; phê duyệt, điều chỉnh nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm trọng yếu. Đang triển khai lập quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050. Nhiều chính sách tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được ban hành, sửa đổi phù hợp với quy định của Trung ương, điều kiện của tỉnh.

2. Văn hóa - xã hội có tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm

2.1. Văn hóa, thể dục, thể thao có chuyển biến tích cực; xây dựng và phát triển con người Quảng Ngãi được chú trọng

Tỉnh ủy đã ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa từng bước được nâng lên. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nay là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” đã tạo sự lan tỏa, tác động đến đời sống kinh tế - xã hội. Năm 2020, có 88% gia đình, 78% thôn, khối phố, 96% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Văn hóa, văn nghệ quần chúng diễn ra sôi nổi, đều khắp, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân. Hoạt động văn học, nghệ thuật có bước phát triển. Một số di sản văn hóa vật thể, phi vật thể được trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị. Chủ trương xây dựng công viên địa chất toàn cầu đối với Lý Sơn và vùng phụ cận được tích cực thực hiện. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở tiếp tục được quan tâm đầu tư, hoạt động ngày càng sôi nổi. Thể dục, thể thao quần chúng phát triển rộng khắp. Đến cuối năm 2020, ước có 33% dân số, 22,5% hộ gia đình luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Công tác huấn luyện, đào tạo và tham gia thi đấu thể thao thành tích cao đạt một số kết quả.

2.2. Chất lượng giáo dục và đào tạo tiếp tục được nâng lên

Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia; phổ cập giáo dục có chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục ở các cấp học, bậc học được nâng lên; chất lượng giáo dục ở miền núi có chuyển biến tích cực. Đã chú trọng giáo dục toàn diện, giáo dục văn hóa kết hợp với giáo dục nhân cách, đạo đức, kỹ năng sống, kiến thức pháp luật và ý thức công dân. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, nhà giáo được nâng lên. Hệ thống trường các cấp học được rà soát, sắp xếp hợp lý hơn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học được quan tâm đầu tư. Thu hút nguồn vốn xã hội đầu tư, phát triển giáo dục và đào tạo đạt một số kết quả. Đã tích cực thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập phát triển rộng khắp. Các chỉ tiêu trường đạt chuẩn quốc gia, phổ cập giáo dục, học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông và trúng tuyển các trường đại học, cao đẳng đều đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết XIX[18].

2.3. Thực hiện nhiệm vụ đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị và phục vụ sản xuất, kinh doanh đạt một số kết quả

Chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị được nâng lên, ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển. Đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cử nhiều lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó có một số được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài[19]. Các chính sách phát triển nguồn nhân lực đã được ban hành và triển khai thực hiện; thu hút được một số nhân lực có trình độ cao về làm việc tại tỉnh[20].

Chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sản xuất, kinh doanh có bước cải thiện. Các cơ sở đào tạo đã chủ động đổi mới, cập nhật, bổ sung chương trình, nội dung đào tạo, mở rộng liên kết với doanh nghiệp, hợp tác quốc tế để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Công tác khảo sát, đánh giá và dự báo nhu cầu lao động được quan tâm. Các giải pháp hỗ trợ giải quyết việc làm được thực hiện đa dạng. Trong nhiệm kỳ, đã giải quyết việc làm cho khoảng 200.000 lao động (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX); trong đó, có khoảng 9.000 người tham gia lao động ở nước ngoài. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ước đạt 55% (đạt mục tiêu Nghị quyết XIX).

2.4. Khoa học, công nghệ có bước phát triển; chất lượng hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí được nâng lên

Nhiều chương trình[21], mô hình, dự án, đề tài nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng khoa học, công nghệ được triển khai thực hiện, đạt một số kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm[22]. Đã tập trung hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới thiết bị công nghệ, phát triển tài sản trí tuệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm[23]. Tổ chức một số hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và thúc đẩy sáng kiến, sáng tạo kỹ thuật.

Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin được quan tâm đầu tư. Một số cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin và phần mềm quản lý chuyên ngành được đầu tư, đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước. Đã chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ hành chính công, tạo thuận lợi cho sự tương tác giữa tổ chức, cá nhân với các cơ quan nhà nước, góp phần từng bước hình thành chính quyền điện tử.

Hoạt động thông tin, truyền thông, báo chí, phát thanh, truyền hình ngày càng đa dạng, phong phú, kịp thời cung cấp thông tin, định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt. Quản lý thông tin trên mạng Internet được tăng cường.

2.5. Sự nghiệp y tế tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, kế hoạch hóa gia đình được coi trọng, đạt nhiều kết quả. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được củng cố và phát triển. Các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện được mở rộng, cải tạo, nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị. Chất lượng khám, chữa bệnh, tinh thần thái độ phục vụ đối với bệnh nhân có chuyển biến tích cực. Nguồn nhân lực y tế chất lượng cao được chú trọng đào tạo và thu hút. Thu hút các nguồn lực trong xã hội đầu tư, phát triển y tế đạt được một số kết quả. Quản lý hành nghề y, dược tư nhân; thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường. Công tác phòng, chống dịch bệnh được triển khai thường xuyên. Các chương trình mục tiêu về dân số, y tế được triển khai thực hiện đạt kết quả tốt. Đến cuối năm 2020, ước đạt 29,5 giường bệnh (cao hơn cả nước) và 7,45 bác sĩ/vạn dân (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX, thấp hơn cả nước); tuổi thọ trung bình đạt 74,1 tuổi (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX, cao hơn cả nước); tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 92% (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX, cao hơn cả nước); 90% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 13%.

2.6. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội

Các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, chăm lo cho người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ, các đối tượng chính sách, người cao tuổi, đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ngày càng tốt hơn. Cơ bản giải quyết xong hồ sơ đề nghị xác nhận, công nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh còn tồn đọng; hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở cho người có công, thân nhân người có công[24] và hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng được phụng dưỡng; 100% đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng chính sách của Nhà nước. Thực hiện tốt các chính sách giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh tăng từ khoảng 26,2 triệu đồng năm 2016 lên khoảng 33,5 triệu đồng năm 2018, thấp hơn cả nước[25].

3. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác nội chính, đối ngoại được tăng cường

Quốc phòng, an ninh được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân mà nền tảng là khu vực phòng thủ ngày càng đi vào chiều sâu. Lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, dự bị động viên được xây dựng bảo đảm số lượng, ngày càng vững mạnh, luôn sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống. Tổ chức tốt các cuộc diễn tập khu vực phòng thủ. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh được coi trọng. Bình quân hàng năm có trên 92% xã, phường, thị trấn vững mạnh về quốc phòng (trong đó, vững mạnh toàn diện đạt trên 63%); có trên 94% xã, phường, thị trấn và trên 81% doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự; giao quân đạt 100% chỉ tiêu; lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số (đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết XIX). Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự được củng cố, xây dựng, phát triển sâu rộng. Tình hình an ninh ở nông thôn, miền núi, biển, đảo, khu kinh tế, các khu công nghiệp và địa bàn trọng điểm được đảm bảo. Trật tự, an toàn giao thông; phòng, chống cháy, nổ có chuyển biến tích cực.

Công tác cải cách tư pháp, nội chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt nhiều kết quả. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện theo đúng quy định, giảm thiểu tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Thực hiện đúng các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai, công khai tài sản, thu nhập. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thường xuyên. Thanh tra công vụ, thanh tra và theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra được tăng cường, kịp thời chấn chỉnh các sai phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng; tỷ lệ giải quyết đạt 96%.

Công tác đối ngoại đạt một số kết quả. Quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống với các địa phương của Lào ngày càng sâu sắc; đã chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương, đơn vị của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,… để xúc tiến thương mại, đầu tư, kêu gọi viện trợ ODA. Đối ngoại nhân dân được tăng cường. Đã xúc tiến, vận động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tài trợ nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội[26]. Quản lý biên giới, lãnh thổ, bảo hộ công dân được thực hiện kịp thời.

4. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp từng bước được nâng lên; thực hiện nhiệm vụ trọng tâm cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính đạt một số kết quả

Đã tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 trên địa bàn tỉnh. Hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh và các cấp có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng lên; kịp thời thể chế hóa, triển khai thực hiện các chủ trương của Trung ương, của cấp ủy cùng cấp. Dân chủ, tinh thần trách nhiệm trong thẩm tra, thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương được phát huy. Chất vấn, trả lời chất vấn có trọng tâm, trọng điểm, chất lượng được nâng lên. Đã tăng cường giám sát, khảo sát chuyên sâu một số lĩnh vực. Công tác kiểm tra, đôn đốc và giám sát việc giải quyết các kiến nghị sau giám sát được thực hiện thường xuyên.

Đã thực hiện sắp xếp một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo chủ trương của Trung ương. Tổ chức bộ máy hành chính và các đơn vị sự nghiệp công lập từng bước được sắp xếp, tinh gọn[27], hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Cải cách và kiểm soát thủ tục hành chính có bước chuyển theo hướng công khai, minh bạch, khắc phục dần sự rườm rà, bất hợp lý. Đã thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh; 16 sở, ngành và 13 huyện, thành phố đã triển khai thực hiện phần mềm một cửa điện tử dùng chung; 09/13 huyện đã thực hiện bộ phận một cửa hiện đại; thực hiện 100% dịch vụ hành chính công trực tuyến mức độ 2 và gần 20% dịch vụ hành chính công trực tuyến mức độ 3, 4, trong đó mức độ 4 đạt khoảng 32%. Kỷ luật, kỷ cương hành chính tiếp tục được nâng lên. 

5. Công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận và các hội, đoàn thể có chuyển biến tích cực

Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến, ngày càng thiết thực, hiệu quả. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được triển khai với nhiều nội dung thiết thực, bám sát yêu cầu thực tiễn. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tập trung giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện gắn với các nghị quyết, chương trình công tác của cấp ủy, chính quyền ngày càng hiệu quả. Tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa bí thư các cấp ủy đảng với nhân dân đạt nhiều kết quả. Thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo bảo đảm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã bám sát chủ trương của Trung ương và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Nội dung, phương thức hoạt động hướng mạnh về cơ sở, đa dạng các hình thức tập hợp, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, hoạt động nhân đạo, từ thiện, chương trình an sinh xã hội, đóng góp xây dựng quê hương; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình, thôn, tổ dân phố văn hóa; thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia hòa giải, giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ cơ sở; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; giám sát, phản biện xã hội. Xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt, cốt cán, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo và các tầng lớp nhân dân.

Tổ chức Công đoàn đã tích cực giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ý thức giai cấp, tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân, lao động; phát động nhiều phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo. Tích cực kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.

Hội Nông dân các cấp đã tích cực tuyên truyền, phổ biến, nâng cao kiến thức pháp luật, khoa học, kỹ thuật cho nông dân; vận động và hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, giúp nhau giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp đã thực hiện tốt việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ; tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới; chú trọng hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ nghèo phát triển kinh tế, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có nhiều đổi mới trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đoàn viên, thanh niên gắn với cuộc vận động ″Tuổi trẻ Quảng Ngãi học tập và làm theo lời Bác″. Các phong trào thi đua, tình nguyện được triển khai sâu rộng, bám sát nhiệm vụ của tỉnh, cổ vũ và đồng hành với thanh niên học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp.

Hội Cựu chiến binh đã làm tốt công tác vận động hội viên cựu chiến binh giữ gìn, phát huy phẩm chất ″Bộ đội Cụ Hồ″, thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực vào xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.

Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội đã bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của tỉnh.

6. Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả

6.1. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức được tăng cường

Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt, tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới, từng bước nâng cao chất lượng. Đã quan tâm nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; hướng dẫn, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm phản ánh kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Các cấp ủy tổ chức nhiều cuộc đối thoại, tiếp xúc để lắng nghe ý kiến của nhân dân; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần ổn định tư tưởng trong xã hội và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đã triển khai một số nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã góp phần từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Đã chú trọng xây dựng, biểu dương, nhân rộng các mô hình học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Việc ban hành và thực hiện Quy định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; các quy định về trách nhiệm nêu gương đã góp phần tạo chuyển biến trong việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trong thực thi nhiệm vụ, phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên.

6.2. Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt kết quả tốt

Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp công lập được sắp xếp, tinh gọn theo tinh thần Nghị quyết 18, 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII[28]. Hoàn thành việc phê duyệt Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức các cơ quan trong hệ thống chính trị cấp tỉnh, huyện. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được cơ cấu, chuẩn hóa theo ngạch, chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm. Quản lý biên chế chặt chẽ hơn, tinh giản biên chế đảm bảo theo lộ trình[29].

Đã rà soát, bổ sung, ban hành mới một số quy định về cán bộ và công tác cán bộ phù hợp tình hình thực tế của tỉnh; rà soát, chấn chỉnh việc thực hiện công tác cán bộ ở các địa phương, đơn vị. Nhận xét, đánh giá cán bộ có chuyển biến tốt, dần đi vào thực chất, khách quan hơn. Quy hoạch cán bộ được thực hiện theo hướng “động” và “mở”, chất lượng được nâng lên, khắc phục dần tình trạng khép kín. Đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với quy hoạch, bố trí, sử dụng. Điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ được thực hiện cơ bản kịp thời; gắn điều động, luân chuyển với sắp xếp, bố trí cán bộ sau đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với một số cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ vị trí trên 08 năm và cán bộ có biểu hiện trì trệ, bảo thủ, ngại va chạm, thiếu ý thức trách nhiệm. Kịp thời củng cố, kiện toàn cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Chế độ, chính sách cán bộ được thực hiện kịp thời, đúng quy định. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy định, nhất là thẩm tra, xác minh, kết luận về tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác cán bộ và kết nạp đảng viên.

Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được quan tâm. Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên. Đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ngày càng thực chất hơn. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh bình quân hàng năm đạt 33,46% (không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX). Phát triển đảng viên được chú trọng; đã kết nạp 1.720 đảng viên mới (vượt mục tiêu Nghị quyết XIX).

6.3. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng đạt kết quả tích cực

Cấp ủy các cấp đã lãnh đạo, triển khai nghiêm túc các quy định của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng. Thực hiện đạt kết quả tương đối toàn diện các chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa và hằng năm. Thực hiện tốt các quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Chất lượng kiểm tra, giám sát được nâng lên, giảm sự trùng lắp, chồng chéo. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động triển khai toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều 32, Điều lệ Đảng, trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giám sát mở rộng đối với đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý. Qua kiểm tra, giám sát đã phát huy ưu điểm, chỉ rõ khuyết điểm, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 3.174 lượt đảng viên, 5.332 lượt tổ chức đảng; giám sát 3.530 lượt đảng viên, 2.762 lượt tổ chức đảng; trong đó, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 401 đảng viên và 150 tổ chức đảng; thi hành kỷ luật 958 đảng viên (khiển trách 657, cảnh cáo 207, cách chức 35, khai trừ 59), 17 tổ chức đảng (khiển trách 15, cảnh cáo 02)[30].

6.4. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy tiếp tục được đổi mới

Tỉnh ủy và các cấp ủy đã quán triệt, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Trung ương phù hợp với tình hình thực tế; tạo nhận thức thống nhất trong cán bộ, đảng viên, nhất là những vấn đề mới. Việc xây dựng các kết luận, nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy khóa XIX có đổi mới theo hướng ngắn gọn, cụ thể, sát tình hình. Việc tuyên truyền, vận động, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được thực hiện theo hướng cụ thể, thiết thực, sát từng lĩnh vực, đối tượng.

Chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các cơ chế, chính sách để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Quy chế làm việc; ban hành Chương trình công tác toàn khóa, hàng năm, quý, tháng, lịch công tác hàng tuần và tổ chức thực hiện kịp thời, hiệu quả. Các chương trình, kế hoạch đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm, phân công trách nhiệm cho từng cấp ủy viên, cơ quan liên quan và thời gian tổ chức thực hiện. Hàng năm, Tỉnh ủy xác định chủ đề công tác để tập trung chỉ đạo. Thường xuyên kiểm tra, tổ chức làm việc với các ngành, địa phương để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; sau làm việc, kiểm tra có kết luận chỉ rõ việc cần làm, thời gian hoàn thành, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân. Hằng quý rà soát, đối chiếu kết quả thực hiện nội dung kết luận để tiếp tục thúc đẩy công việc; động viên tập thể, cá nhân hoàn thành tốt; nhắc nhở, phê bình tập thể, cá nhân thực hiện chậm, hiệu quả thấp.

Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy đã cơ bản thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, những vấn đề quan trọng, nhạy cảm, phức tạp đều coi trọng từ khâu nghiên cứu, tranh thủ ý kiến chỉ đạo của cấp trên, trưng cầu ý kiến của các địa phương, đơn vị, lắng nghe ý kiến của các cơ quan tham mưu, dành thời gian thảo luận kỹ để đi đến thống nhất và quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

II. HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Hạn chế, khuyết điểm

1.1. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Một số chỉ tiêu chủ yếu không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX. Tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước còn phụ thuộc nhiều vào Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi cân đối tăng[31]. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với trung bình của cả nước.

Công nghiệp chế biến, chế tạo phần lớn hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị. Sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm công nghiệp mới không nhiều. Một số sản phẩm chủ lực có xu hướng giảm. Công nghiệp hỗ trợ, hóa dầu, chế biến nông, lâm, thủy sản phát triển chậm. Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp có quy mô nhỏ, thiết bị, công nghệ chưa hiện đại, năng suất lao động, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập thấp. Khu công nghiệp Phổ Phong chưa phát triển.

Nông nghiệp phát triển chưa bền vững, hiệu quả chưa cao, cơ cấu chuyển dịch chậm, chưa rõ nét; sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa chưa nhiều, quy mô nhỏ. Vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến thiếu ổn định. Tình trạng vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng còn xảy ra. Chính sách khuyến khích trồng cây gỗ lớn, gỗ quý chưa thu hút được nhiều người dân tham gia. Hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng nhu cầu. Quy mô nuôi trồng thủy sản nhỏ. Ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong sản xuất, xây dựng thương hiệu chưa nhiều. Liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản theo chuỗi giá trị còn ít, phần lớn sản phẩm bán ra thị trường ở dạng thô, chưa qua chế biến sâu. Nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác có quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động thấp. Số lượng xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới thấp so với bình quân chung của cả nước, có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương, vùng đồng bằng và miền núi.

Một số chỉ tiêu chủ yếu về dịch vụ chưa đạt. Quy hoạch, đầu tư phát triển dịch vụ chưa đồng bộ, thiếu liên kết. Dịch vụ có giá trị gia tăng cao, dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho phát triển công nghiệp và phục vụ dân sinh còn hạn chế. Dịch vụ cảng biển, vận tải biển chưa phát triển nhiều, chưa hiện đại, chi phí cao. Hạ tầng du lịch còn yếu; chưa có khu, điểm du lịch, vui chơi, giải trí quy mô lớn; nhiều dự án triển khai chậm tiến độ. Quy mô kinh tế biển nhỏ; hạ tầng kinh tế - xã hội vùng biển, đảo chưa đồng bộ; đời sống của nhân dân vùng biển còn khó khăn.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn hạn chế. Hạ tầng giao thông, đô thị chưa đồng bộ; một số công trình giao thông quan trọng chậm tiến độ. Phát triển đô thị chưa bền vững. Hạ tầng văn hóa - xã hội, nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Một số dự án đã được xác định trong Nghị quyết XIX nhưng chưa tập trung huy động và bố trí vốn để đầu tư như: đường Tịnh Phong - Dung Quất; Trường Đại học Phạm Văn Đồng; Khu Liên hợp thể dục, thể thao. Hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế chưa cao; năng lực hội nhập và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tỉnh còn thấp.

Quản lý, sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản còn nhiều thiếu sót. Tình trạng khai thác đá, sỏi, cát trái phép còn diễn ra nhiều nơi. Nhận thức về bảo vệ môi trường của một số cơ quan, địa phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp còn thấp; bảo tồn đa dạng sinh học chưa được chú trọng. Các vấn đề phát sinh liên quan đến thu gom, xử lý rác thải, chất thải, ô nhiễm môi trường tại một số địa phương, khu công nghiệp,... chưa được giải quyết triệt để, gây bức xúc trong nhân dân. Việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu có mặt còn hạn chế. Chất lượng một số quy hoạch chưa cao, quản lý thực hiện quy hoạch chưa chặt chẽ.

1.2. Phát triển văn hóa, xã hội chưa đồng bộ với phát triển kinh tế. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu của người dân. Một số di tích lịch sử, văn hóa xuống cấp, chưa được trùng tu, sửa chữa, nâng cấp. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học chưa đáp ứng yêu cầu. Dạy thêm, học thêm trái quy định còn diễn ra. Đội ngũ giáo viên vừa thừa, vừa thiếu. Chuyển dịch cơ cấu lao động chưa theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Công tác dự báo và kết nối cung, cầu lao động còn hạn chế. Thực hiện nhiệm vụ đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chưa toàn diện, đồng bộ, kết quả đạt được chưa như mong muốn. Thiếu lao động có tay nghề cao. Chất lượng khám, chữa bệnh tuy có cải thiện nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Thiếu y, bác sĩ có trình độ chuyên môn cao ở tuyến huyện, xã. Tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến tỉnh chưa được khắc phục. Xã hội hóa lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, môi trường còn hạn chế. Quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm còn bất cập. Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Tình trạng doanh nghiệp trốn đóng, nợ bảo hiểm xã hội còn xảy ra. Chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi ở nhiều dự án chưa được quan tâm đúng mức. Giải quyết chế độ, chính sách cho người có công ở một số nơi còn chậm. Tỷ lệ giảm nghèo toàn tỉnh và khu vực đồng bằng không đạt mục tiêu Nghị quyết XIX; giảm nghèo ở miền núi đạt chỉ tiêu nhưng chưa thực sự bền vững, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Hiệu quả lồng ghép các chương trình, dự án trong thực hiện giảm nghèo chưa cao. Hoạt động khoa học, công nghệ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực của các tổ chức khoa học, công nghệ còn yếu, thiếu sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp để hình thành liên kết chuỗi giá trị.

1.3. Quốc phòng, an ninh, nội chính có mặt chưa toàn diện. Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền về xây dựng các tiềm lực quốc phòng chưa đầy đủ. Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh có mặt còn hạn chế. Công tác nắm và dự báo tình hình trong nhân dân có lúc chưa kịp thời, sâu sát. An ninh trật tự tại một số địa bàn còn tiềm ẩn phức tạp. Tội phạm, tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, tín dụng đen gia tăng; tai nạn giao thông được kiềm chế nhưng còn ở mức cao. Tỷ lệ thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.

Cải cách tư pháp có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc thực hiện kết luận thanh tra của một số cơ quan, đơn vị chưa kịp thời; khắc phục sai phạm còn hạn chế. Thủ trưởng một số cơ quan, đơn vị chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm tiếp công dân và chủ trì đối thoại. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được thực hiện nhưng còn hình thức, hiệu quả chưa cao; tình trạng tham nhũng, lãng phí còn xảy ra, chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai, ô nhiễm môi trường ở một số địa phương phức tạp, kéo dài, chưa được giải quyết dứt điểm. 

1.4. Việc giải quyết các phản ánh, kiến nghị của cử tri và các kiến nghị sau giám sát, tiếp xúc, đối thoại có nơi còn chậm. Cải cách hành chính chưa thực sự quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả thấp. Giải quyết thủ tục hành chính tại một số cơ quan, địa phương chưa tốt. Hoạt động của một số mô hình một cửa, một cửa liên thông điện tử hiện đại ở cấp huyện, cấp xã chưa đáp ứng yêu cầu, có nơi còn mang tính hình thức. Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 chưa nhiều. Chất lượng dịch vụ công của một số đơn vị sự nghiệp còn hạn chế. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, lành mạnh, chưa có sự phối hợp tích cực để hỗ trợ cho nhà đầu tư, doanh nghiệp. Các chỉ số: cải cách hành chính (PAR INDEX), hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) chậm được cải thiện, ở vị trí thấp so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, chưa đạt mục tiêu đề ra. Ý thức trách nhiệm, trình độ, năng lực công tác của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu; kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm. 

1.5. Nhận thức về công tác dân vận trong hệ thống chính trị chưa đồng bộ. Một số nơi chưa thực hiện nghiêm túc, hiệu quả công tác dân vận chính quyền. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhiều nơi còn hình thức. Chất lượng giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận, các đoàn thể còn hạn chế; chưa phát huy tốt vai trò giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể có đổi mới nhưng chưa rõ nét; triển khai các phong trào thi đua chưa đồng đều, rộng khắp. Các đoàn thể, lực lượng nòng cốt, người có uy tín ở một số nơi chưa phát huy được vai trò trong tham gia giải quyết các "điểm nóng" xảy ra tại cơ sở. 

1.6. Theo dõi, nắm bắt, tuyên truyền, định hướng tư tưởng, dư luận có việc chưa kịp thời, thiếu chiều sâu. Đấu tranh, ngăn chặn, phản bác các luận điệu sai trái, thông tin tiêu cực có mặt còn lúng túng, thiếu sắc bén. Việc “làm theo” tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh còn hạn chế, chưa thực chất. Việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn bộc lộ một số mặt bất cập. Thực hiện tinh giản biên chế ở một số đơn vị chưa có lộ trình, kế hoạch cụ thể. Đánh giá cán bộ vẫn còn tình trạng cảm tính, nể nang. Quy hoạch cán bộ ở một số nơi thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các địa phương. Việc điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử có trường hợp chưa bảo đảm tiêu chuẩn, quy trình; có địa phương, đơn vị chưa xây dựng kế hoạch thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề chính trị hiện nay.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phê bình và tự phê bình của một số tổ chức đảng, đảng viên còn thấp, có biểu hiện nể nang, xuê xoa, chưa làm tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên, người đứng đầu chưa tốt. Một số đồng chí vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, có đồng chí bị xem xét, thi hành kỷ luật. Phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân và ở địa bàn dân cư còn khó khăn. Quản lý đảng viên, nhất là đảng viên là bộ đội xuất ngũ, đi làm ăn xa, cán bộ về hưu chưa chặt chẽ.

Kỷ luật, kỷ cương trong Đảng ở một số tổ chức, đơn vị chưa nghiêm; còn tình trạng vi phạm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật phát ngôn; một số trường hợp xử lý kỷ luật về hành chính chưa đồng bộ với xử lý kỷ luật về Đảng. Theo dõi, đôn đốc, giám sát việc khắc phục sai sót, khuyết điểm, vi phạm đã chỉ ra qua kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa thường xuyên. Ủy ban kiểm tra các cấp và một số tổ chức đảng, cơ quan chưa thực sự chủ động trong việc thực hiện các quy chế phối hợp, nhất là phối hợp, trao đổi thông tin về dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên.

2. Nguyên nhân

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, trong đó, có một số nguyên nhân chủ yếu sau: Giá dầu giảm sâu trong thời gian dài; ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19; các dự án lớn triển khai chậm so với kế hoạch; một số quy định pháp luật về đầu tư, đất đai còn bất cập, chưa đồng bộ; việc thực hiện quan hệ giữa sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và quản lý, điều hành của chính quyền chưa thật chặt chẽ, hiệu quả; nhận thức và áp dụng pháp luật trong thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội chưa đầy đủ nên có việc còn lúng túng, mắc sai phạm; văn bản lãnh đạo, chỉ đạo nhiều nhưng tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; một bộ phận cán bộ, đảng viên và người đứng đầu chưa làm hết trách nhiệm, có việc thiếu tập trung, kiên quyết, có việc né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, ngại va chạm, ngại đổi mới; một số chính sách đã ban hành chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tính khả thi chưa cao, chưa có tính đột phá; năng lực dự báo còn thấp, một số chủ trương, nhiệm vụ đề ra chưa sát với khả năng cân đối nguồn lực; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện và tháo gỡ các vướng mắc còn thiếu đồng bộ, kịp thời.

III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

1. Đánh giá tổng quát

Năm năm qua, tỉnh ta đạt được một số kết quả quan trọng. Kinh tế tiếp tục phát triển; quy mô tổng sản phẩm tăng khá. 03 nhiệm vụ đột phá, 03 nhiệm vụ trọng tâm được tập trung chỉ đạo và thực hiện đạt một số kết quả quan trọng. Giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm công nghiệp vượt mục tiêu đề ra. Hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển khá. Môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút đầu tư từng bước được cải thiện, có mặt chuyển biến tích cực. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người được chú trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên. Sự nghiệp y tế tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển. Thực hiện tốt các chính sách xã hội. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác nội chính, đối ngoại được tăng cường. Cải cách hành chính đạt một số kết quả. Hoạt động của Mặt trận, đoàn thể được đổi mới. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát đạt một số kết quả.

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa thực sự bền vững. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và một số chỉ tiêu chủ yếu có ý nghĩa quan trọng khác không đạt mục tiêu đề ra. Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá có mặt chưa toàn diện, kết quả chưa như mong muốn. Chưa có bộ tiêu chí để đánh giá đầy đủ về tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế. Khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện miền núi còn cao. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quản lý đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường chưa chặt chẽ. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có mặt còn hạn chế. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng và một bộ phận đảng viên còn yếu. Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên, người đứng đầu chưa tốt. Trong triển khai thực hiện một số dự án đầu tư, quản lý ngân sách, điều động, bổ nhiệm cán bộ, cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài, có việc để xảy ra sai phạm, khuyết điểm, làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2. Một số kinh nghiệm

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện trong năm năm qua, rút ra một số kinh nghiệm sau:

1. Phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, trước hết là lãnh đạo chủ chốt của tỉnh; chống chủ nghĩa cá nhân. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; giữ gìn đoàn kết thực sự trong Đảng. Phải xem cán bộ là khâu quyết định, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

2. Phải thực sự gần dân, trọng dân, tin dân và lắng nghe dân, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở. Công khai, minh bạch các chủ trương, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội… để nhân dân biết, tham gia góp ý, phản biện và giám sát việc thực hiện. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống cách mạng, lịch sử, văn hóa của quê hương, phấn đấu vì sự phát triển của tỉnh.

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và phát huy tính chủ động, sáng tạo của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, tránh bao biện, làm thay. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, kiên trì và hành động quyết liệt. Tăng cường kiểm tra, giám sát, sâu sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, các điểm nghẽn để thúc đẩy phát triển. Đối với những vấn đề quan trọng, nhạy cảm, phức tạp, cần phát huy dân chủ rộng rãi, trí tuệ tập thể, dành thời gian bàn bạc, thảo luận kỹ để thống nhất; khi đã quyết định thì nghiêm túc thực hiện.

4. Phải nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, dự báo tình hình; bám sát thực tiễn, giải quyết linh hoạt, đúng đắn, kịp thời, hiệu quả các vấn đề phát sinh của đời sống xã hội. Cụ thể hóa kịp thời các chủ trương của Trung ương; điều chỉnh, bổ sung, ban hành các chính sách phù hợp với thực tiễn. Coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm; nhân rộng các mô hình tốt, cách làm hay, hiệu quả.

5. Giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững; coi trọng tính cân đối, hiệu quả trong tất cả các khâu huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực; khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh, huy động và kết hợp chặt chẽ các nguồn lực cho phát triển.

Phần thứ hai

QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN, MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU VÀ

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHIỆM KỲ 2020 – 2025,

ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030

Trong những năm đến, tình hình thế giới, khu vực, Biển Đông, biến đổi khí hậu, dịch bệnh có xu hướng tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp, khó lường; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động nhanh, sâu rộng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn, thách thức mới; hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn sẽ có những tác động đến phát triển kinh tế nhanh, bền vững; đại dịch Covid-19 có khả năng gây ra suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, không chỉ tác động đến năm 2020 mà có khả năng kéo dài đến những năm đầu của nhiệm kỳ 2020 - 2025; những hạn chế, yếu kém đã chỉ ra trong nhiệm kỳ qua, nhất là quy mô kinh tế còn nhỏ, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao; nguy cơ ô nhiễm môi trường tăng; nguồn vốn, nhân lực, hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trường đầu tư còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu,... là những khó khăn, thách thức lớn của tỉnh trong quá trình phát triển.

Nhưng tỉnh ta cũng có những thời cơ, thuận lợi cơ bản. Nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và kinh nghiệm quý báu sau 30 năm tái lập tỉnh tạo tiền đề quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hạ tầng kinh tế - xã hội đã và đang được đầu tư từng bước đồng bộ hơn; hệ thống giao thông kết nối với các địa phương trong vùng ngày càng thuận lợi; mối quan hệ hợp tác, liên kết phát triển với các địa phương trong vùng dần được phát huy; Khu Kinh tế Dung Quất, Khu Công nghiệp VSIP Quảng Ngãi và các khu công nghiệp có thể sẽ đón nhận được các nhà đầu tư lớn từ làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam; tiềm năng về du lịch, kinh tế biển, công nghiệp, nông nghiệp còn lớn, cùng với các dự án lớn đã, đang và sẽ triển khai thực hiện là điều kiện thuận lợi để tỉnh tiếp tục phát triển trong giai đoạn 2020 - 2025 và những năm tiếp theo.

I. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN

1. Lấy xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh làm cơ sở quan trọng để khơi dậy niềm tự hào, ý chí, khát vọng, niềm tin phát triển trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2. Đổi mới mạnh mẽ tư duy; khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững. Phát triển kinh tế cả chiều rộng và chiều sâu, lấy tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu, bền vững làm hướng chủ đạo. Chủ động tiếp cận, tham gia, tận dụng tốt các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát triển đa dạng các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là trung tâm và lực lượng phát triển chủ yếu.

3. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Lấy giá trị văn hóa, con người làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.

4. Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, văn minh. Con người ứng xử tôn trọng với nhau và với môi trường tự nhiên. Nhà nước làm tốt vai trò kiến tạo để mọi người được trao cơ hội phát triển, không ai bị bỏ lại phía sau, phát huy tối đa nguồn lực, sức sáng tạo, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

5. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

6. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho phát triển bền vững.

II. MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng bộ và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xứng đáng với niềm tin của nhân dân; khơi dậy niềm tự hào, phát huy truyền thống anh hùng, sức mạnh đoàn kết và khát vọng phát triển; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, tận dụng thời cơ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị - xã hội. Phấn đấu đến năm 2025, Quảng Ngãi trở thành tỉnh phát triển khá của Vùng miền Trung; tạo tiền đề để đến năm 2030, trở thành tỉnh phát triển khá, có thu nhập bình quân đầu người ít nhất bằng mức bình quân của cả nước.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

2.1. Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân 7 - 8%/năm; năng suất lao động tăng bình quân 6 - 8%/năm. Đến năm 2025, GRDP bình quân đầu người khoảng 4.200 - 4.400 USD; thu nhập bình quân đầu người (giá hiện hành) tăng bình quân 7 - 10%/năm; tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GRDP khoảng 69 - 70%; tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 35%. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn trong 5 năm đạt ít nhất 150.000 tỷ đồng. Phấn đấu thu ngân sách hàng năm vượt mức chỉ tiêu Trung ương giao trên 5%.

2.2. Về xã hội: Đến năm 2025, có 119 xã và 6 huyện đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 37%; tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 65%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 2,8%; có ít nhất 50% trường mầm non, 88% trường tiểu học, 88% trường trung học cơ sở, 32% trường tiểu học - trung học cơ sở, 71% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; có trên 8 bác sĩ và 32 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1 - 1,5%/năm.

2.3. Về môi trường: Đến năm 2025, có ít nhất 90% dân số đô thị, 75% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; 100% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh; ít nhất 65% chất thải nguy hại, 95% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 52%.

2.4. Về quốc phòng, an ninh: Hằng năm, có khoảng 95% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn vững mạnh về quốc phòng, trong đó vững mạnh toàn diện đạt khoảng 65%; ít nhất 80% xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn an toàn về an ninh trật tự.

2.5. Về xây dựng Đảng: Bình quân hàng năm, có khoảng 70% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó có khoảng 20% tổ chức cơ sở đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1. Về phát triển kinh tế

1.1. Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh

Đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Kết hợp tăng trưởng giữa chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu làm hướng chủ đạo. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển mạnh dịch vụ; từng bước phát triển kinh tế số. Tập trung tháo gỡ vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi để khơi thông nguồn lực, khai thác và phát huy tối đa nội lực, kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài cho phát triển. Chủ động có giải pháp khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 gây ra.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Nâng cao thu nhập của người dân.

1.2. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp

Tập trung phát triển công nghiệp bền vững hơn, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp sạch; chế biến, chế tạo; xử lý nước thải, rác thải, các sản phẩm từ tro, xỉ của ngành công nghiệp luyện kim; năng lượng tái tạo; các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan đến hóa dầu, luyện kim, cơ khí, điện - điện tử, dệt may, chế biến nông, lâm, thủy sản; công nghệ thông tin; chế tạo thông minh. Kiên quyết không cấp phép đầu tư các dự án công nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Tăng cường xúc tiến, thu hút đầu tư vào Khu Kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp tỉnh. Tiếp tục đầu tư xây dựng và phát triển Khu Kinh tế Dung Quất trở thành một trong những trung tâm công nghiệp ven biển trọng điểm của khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ với trọng tâm là các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo. Tiếp tục phát triển hợp lý các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giày da, lắp ráp linh kiện điện tử,... để giải quyết việc làm cho người lao động. Hỗ trợ sớm nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất; mở rộng, đẩy nhanh tốc độ phát triển Khu Công nghiệp VSIP Quảng Ngãi; hỗ trợ sớm đầu tư Khu Công nghiệp - Đô thị Dung Quất, Khu công nghiệp nhẹ Bình Hòa - Bình Phước. Phát triển phù hợp Khu công nghiệp Phổ Phong. Hình thành cụm ngành công nghiệp trong một số ngành công nghiệp ưu tiên. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp.

Phấn đấu tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp - xây dựng bình quân từ 7 – 8%/năm; trong đó, công nghiệp tăng bình quân từ 8 - 9%/năm. Đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GRDP chiếm khoảng 40 - 41%.    

1.3. Phát triển nông nghiệp bền vững

Tập trung chỉ đạo và ưu tiên nguồn lực thực hiện hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Khuyến khích, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Phát triển mô hình nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, nông nghiệp sinh thái ở những nơi có điều kiện. Đẩy mạnh dồn điền, đổi thửa, cải tạo đồng ruộng để phát triển nông nghiệp quy mô lớn, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản. Tái cơ cấu lại sản xuất, thực hiện hiệu quả Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Thúc đẩy hình thành liên kết theo chuỗi giá trị; gắn sản xuất với xây dựng thương hiệu, bảo quản, chế biến, tiêu thụ. Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp. Đẩy mạnh liên kết giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học, ngân hàng và nhà phân phối trong sản xuất nông nghiệp. Có chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân từ 4 – 5%/năm; đến năm 2025, tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GRDP chiếm khoảng 16 - 17%.

Phát triển vùng nguyên liệu, chăn nuôi phục vụ công nghiệp chế biến phù hợp, bảo đảm hiệu quả sử dụng đất. Phát triển vùng trồng cây ăn quả, rau sạch, dược liệu, sinh vật cảnh ở những nơi có điều kiện. Phát triển chăn nuôi theo mô hình tập trung, công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao; khuyến khích phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả, thân thiện với môi trường; chủ động kiểm soát dịch bệnh.

Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; giữ ổn định tỷ lệ che phủ rừng. Thực hiện tốt giao đất, giao rừng. Nâng cao chất lượng rừng trồng; đẩy mạnh trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn, gỗ nguy cấp, quý hiếm; khuyến khích trồng rừng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến sâu.

Phát triển thủy sản toàn diện, bền vững trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến. Tiếp tục đóng mới tàu có công suất lớn, trang thiết bị hiện đại để khai thác xa bờ. Cơ cấu lại tàu thuyền, ngành nghề phù hợp với các vùng biển, tuyến biển, môi trường tự nhiên, nguồn lợi thủy sản; nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt; phát triển tàu dịch vụ hậu cần; đẩy mạnh phục hồi và tái tạo nguồn lợi thủy sản. Củng cố, phát triển các mô hình hợp tác trong đánh bắt hải sản. Khuyến khích nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nạo vét, thông luồng các cửa biển; đầu tư nâng cấp các cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền. Khuyến khích đầu tư phát triển các cơ sở bảo quản, chế biến thủy sản để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm.

1.4. Phát triển đa dạng các ngành dịch vụ; đẩy mạnh phát triển du lịch

Phấn đấu tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ bình quân từ 8 - 9%/năm; đến năm 2025, tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm trong GRDP khoảng 29 - 30%. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, nâng cao chất lượng vận tải hành khách, hàng hóa; mở rộng và nâng cao chất lượng vận tải công cộng. Hình thành và phát triển dịch vụ logistics trên cơ sở khai thác và phát huy lợi thế cảng biển nước sâu Dung Quất. Phát triển mạnh dịch vụ thông tin và truyền thông; khuyến khích thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Mở rộng phát triển dịch vụ phân phối; đầu tư phát triển mới các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini ở thành phố Quảng Ngãi, Khu Kinh tế Dung Quất, trung tâm thị trấn các huyện; đầu tư, nâng cấp và đổi mới mô hình quản lý chợ truyền thống; thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt. Tích cực xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa dạng thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Phấn đấu đến năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,68 tỷ USD. Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và hỗ trợ kinh doanh. Nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ đời sống người dân như: văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường,... Khuyến khích phát triển các dịch vụ: khoa học và công nghệ; tư vấn khởi nghiệp; tư vấn, đào tạo nghề và giới thiệu, giải quyết việc làm; tư vấn, hỗ trợ xúc tiến đầu tư;... Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam".

Tích cực thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược, có năng lực thực sự, đầu tư các khu, điểm du lịch quy mô lớn, tạo bước đột phá trong phát triển dịch vụ du lịch theo hướng hiện đại, có giá trị gia tăng cao. Phát triển các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch phù hợp với tiềm năng, lợi thế riêng có của tỉnh. Đẩy mạnh liên kết, hợp tác phát triển du lịch với các địa phương trong vùng. Phát triển du lịch biển, đảo trở thành loại hình du lịch chủ đạo, lấy Lý Sơn làm hạt nhân; phát triển du lịch Lý Sơn bền vững, tránh khai thác quá nóng. Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh trên cơ sở nâng tầm giá trị di sản văn hóa Sa Huỳnh, Trường Lũy Quảng Ngãi, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ đầu tư, đưa vào khai thác Khu văn hóa Thiên Mã; đầu tư Công viên Thiên Bút; kêu gọi đầu tư Khu văn hóa Thiên Ấn. Phát triển du lịch sinh thái; tạo thuận lợi để đầu tư đồng bộ, khai thác hiệu quả các khu, điểm du lịch: Suối Chí, Bãi Dừa, suối nước nóng Nghĩa Thuận, thác Trắng, Thiên Đàng; thúc đẩy sớm xây dựng, đưa vào khai thác các khu du lịch nghỉ dưỡng ở khu đô thị Vạn Tường, Bình Châu, Mỹ Khê, Mộ Đức, Sa Huỳnh,... Kêu gọi đầu tư phát triển du lịch sinh thái ở núi Cà Đam, Gành Yến, suối nước nóng Thạch Bích,... Thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn ở những nơi có điều kiện. Tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án du lịch.

1.5. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại

Tiếp tục ưu tiên nguồn lực và thu hút doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Huy động các nguồn lực phát triển hệ thống giao thông theo quy hoạch, ưu tiên các công trình trọng điểm, có sức lan tỏa. Phấn đấu hoàn thành, đưa vào sử dụng: đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh (giai đoạn 2a), Đập dâng hạ lưu sông Trà Khúc. Huy động nguồn lực để đầu tư đường Tịnh Phong - Dung Quất, cầu Trà Khúc (cũ), chỉnh trị sông Trà Khúc. Tích cực, chủ động phối hợp để sớm đầu tư: Quốc lộ 24B (Km23 - Km57); cao tốc Quảng Ngãi - Bình Định. Nâng cấp, mở rộng các tuyến đường huyện và đường xã theo quy hoạch. Đến năm 2025, phấn đấu 100% đường huyện, ít nhất 75% đường xã được nhựa hóa, cứng hóa; có 119 xã đạt tiêu chí nông thôn mới về giao thông. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đường thủy nội địa theo quy hoạch; hình thành, phát triển các tuyến từ đất liền đi Lý Sơn.

Đầu tư, hoàn thiện các công trình hạ tầng quan trọng, thiết yếu ở thành phố Quảng Ngãi và các đô thị. Thu hút đầu tư các khu đô thị mới gắn với việc mở rộng đô thị và phát triển hạ tầng. Đầu tư, nâng cấp các công trình hạ tầng nghề cá, phục vụ nông nghiệp và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tiếp tục đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống truyền tải, phân phối điện, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi. Ưu tiên nguồn lực đầu tư kiên cố trường, lớp học, nhà công vụ cho giáo viên, trang thiết bị phục vụ dạy và học. Đẩy mạnh xã hội hóa việc đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị trong lĩnh vực giáo dục, y tế. Đầu tư, nâng cấp Bệnh viện Đa khoa tỉnh đạt tiêu chuẩn hạng 1; các bệnh viện chuyên khoa cấp tỉnh; đưa vào sử dụng Bệnh viện Y học Cổ truyền (giai đoạn 2); hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ đầu tư Khu dịch vụ chất lượng cao Bệnh viện Đa khoa tỉnh; đầu tư Khu liên hợp thể dục, thể thao của tỉnh. Đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, trung tâm dữ liệu, cơ sở dữ liệu dùng chung bảo đảm đồng bộ, hiện đại, kết nối, liên thông giữa các cấp, các ngành gắn với bảo đảm an ninh, an toàn thông tin.

1.6. Phát triển hài hòa, bền vững giữa các vùng; phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới

Tổ chức, phân bố không gian phát triển một cách hợp lý, phát huy tốt nhất lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương, tăng cường liên kết, hỗ trợ, hình thành chuỗi giá trị trong phát triển. Hoàn thành Quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2020 - 2030 làm cơ sở phân bố không gian, định hướng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường quản lý chặt chẽ, đồng bộ quy hoạch tỉnh, các quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và dự án đầu tư cụ thể, bảo đảm phù hợp với các quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Đối với vùng miền núi: Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ưu tiên nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững. Xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp có hiệu quả. Có chính sách đặc thù thu hút đầu tư vào khu vực miền núi. Tập trung khai thác, phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế để phát triển lâm nghiệp bền vững; xây dựng chương trình cụ thể trồng các loại cây dược liệu dưới tán rừng; cải tạo và đưa giống mới phù hợp để trồng rừng gỗ lớn đáp ứng tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững, tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ công nghiệp chế biến gỗ theo hướng xuất khẩu. Khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ đáp ứng sản xuất và đời sống của người dân. Từng bước đầu tư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội miền núi, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

Đối với vùng đồng bằng: Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, dựa vào khoa học, công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Quy hoạch, phát triển một số vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp chuyên canh, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, trước hết tập trung ở những địa phương có điều kiện như: Nghĩa Hành, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Bình Sơn,… Tập trung thu hút các dự án đầu tư về công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, bảo đảm đầu ra ổn định cho các sản phẩm nông nghiệp. Chuyển đổi cây trồng, vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đối với vùng ven biển, hải đảo: Thực hiện có hiệu quả Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, tạo bước phát triển mạnh về kinh tế biển. Phát triển kinh tế biển đồng bộ cả công nghiệp, dịch vụ, du lịch, nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, hạ tầng cảng biển, logistics. Tăng cường bảo vệ tài nguyên, môi trường biển; bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển. Tập trung nguồn lực xây dựng, phát triển Trung tâm logistics khu vực cảng biển Dung Quất. Quy hoạch, đầu tư phát triển các khu đô thị, dịch vụ, du lịch chất lượng cao ven biển. Phát triển bền vững huyện đảo Lý Sơn.

Phát triển đô thị: Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, phấn đấu sớm bằng mức bình quân chung cả nước. Từng bước nâng cao chất lượng phát triển đô thị cả về kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng, kiến trúc, nhà ở, chất lượng cuộc sống của người dân. Phát huy thế mạnh của từng đô thị và cả hệ thống đô thị để đô thị thực sự trở thành vùng động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, theo hướng phát triển đô thị xanh, đô thị thông minh.

Đẩy mạnh phát triển thành phố Quảng Ngãi về hướng biển. Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển đô thị thành phố Quảng Ngãi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của đô thị loại II, phấn đấu đến năm 2030, cơ bản đạt chuẩn đô thị loại I. Tăng cường kết nối đô thị thành phố Quảng Ngãi với các đô thị lân cận để mở rộng không gian và tạo động lực phát triển.

Quy hoạch, phát triển đô thị ven biển đồng bộ, hiện đại dọc theo tuyến Dung Quất - Sa Huỳnh; tạo thuận lợi để đầu tư, đưa vào sử dụng các khu đô thị sinh thái, chất lượng cao ở đô thị Vạn Tường. Quan tâm đầu tư, phát triển trung tâm huyện lỵ mới Sơn Tịnh và các đô thị trung tâm ở các huyện. Phấn đấu đến năm 2025, đưa thị xã Đức Phổ đạt chuẩn đô thị loại IV, một số tiêu chí đạt chuẩn đô thị loại III; các đô thị Di Lăng, Châu Ổ, Vạn Tường đạt chuẩn đô thị loại IV; Lý Sơn, Ba Tơ, Trà Xuân đạt một số tiêu chí cơ bản của đô thị loại IV; các đô thị còn lại đạt chuẩn đô thị loại V. Phát triển huyện Bình Sơn thành thị xã. Có chính sách hỗ trợ đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, nhất là nhà ở dành cho công nhân, người có thu nhập thấp.

Xây dựng nông thôn mới: Tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, lấy dân cư nông thôn làm chủ thể. Tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; nâng cao năng lực, trình độ sản xuất, cải thiện thu nhập, chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Phấn đấu đến năm 2025, có ít nhất 36 xã và 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

1.7. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư; thúc đẩy khởi nghiệp; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển

Đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Nâng cao hiệu quả đầu tư công, nhất là trong lập và quản lý thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn, bảo đảm yêu cầu phát triển, hạn chế thấp nhất việc điều chỉnh, bổ sung. Tăng cường các biện pháp quản lý các nguồn thu phát sinh, chống thất thu ngân sách; kịp thời giải quyết các vướng mắc để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách. Tiếp tục cơ cấu chi ngân sách theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, ưu tiên nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng tâm, công trình trọng điểm, giảm chi thường xuyên.

Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Rà soát, bổ sung các chính sách khuyến khích, ưu đãi để thu hút các dự án đầu tư từ các nhà đầu tư lớn. Tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đầu tư, kinh doanh. Rà soát, đơn giản hóa, cắt giảm tối đa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, tham gia sâu vào chuỗi giá trị và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện đại hóa công nghệ, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh. Hỗ trợ chuyển đổi hộ sản xuất, kinh doanh thành doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường là tiêu chí để lựa chọn, xúc tiến đầu tư. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã. Thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, ưu tiên các dự án có giá trị gia tăng cao, có mô hình quản trị hiện đại, công nghệ tiên tiến, kết nối chuỗi cung ứng, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục đẩy mạnh liên kết vùng, nhất là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung để phát huy tối đa lợi thế và huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát triển đồng bộ các loại thị trường, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, vốn, lao động, khoa học và công nghệ,… Phát huy hiệu quả phương thức hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư cơ sở hạ tầng.

2. Về phát triển văn hóa - xã hội

2.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa; xây dựng con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững; phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; đổi mới nội dung, phương thức đầu tư cho phát triển văn hóa. Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh. Xây dựng văn hóa trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và trong mỗi gia đình. Trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể. Hoàn thành việc xây dựng Lý Sơn và vùng phụ cận thành công viên địa chất toàn cầu. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực văn hóa, thể thao. Nâng cao hiệu quả hoạt động các thiết chế văn hóa, thể thao. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa. Phát triển sâu rộng các phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"; "Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Đến năm 2025, có 90% gia đình, 84% thôn, tổ dân phố, 97,5% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Coi trọng phát triển và nâng cao vai trò của văn học, nghệ thuật trong bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách con người Quảng Ngãi; khẳng định, tôn vinh và bảo vệ cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; đấu tranh, phê phán cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người, xuống cấp về đạo đức, lối sống.

Xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng, hình thành các giá trị mới của con người Quảng Ngãi với các đặc tính cơ bản: yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tự trọng, tự chủ, sống nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, có tri thức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, nêu cao trách nhiệm công dân, tuân thủ pháp luật, có tinh thần hợp tác cao, khẳng khái, khoan dung, thân thiện, có ý thức bảo vệ môi trường; đồng thời, từng bước khắc phục những khiếm khuyết trong tính cách của một bộ phận dân cư như tính hẹp hòi, khắt khe, cố chấp, thụ động, cứng nhắc, thiếu hợp tác, ý thức lao động thấp.

Phát triển mạnh phong trào thể dục, thể thao quần chúng, nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe người dân cả về thể chất, tinh thần. Đầu tư, phát triển các môn thể thao thành tích cao có thế mạnh; chú trọng đào tạo tài năng về thể thao.

2.2. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học; từ chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chú trọng giáo dục và đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội, có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy và học Tiếng Anh. Củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Chú trọng phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục ở các bậc học. Thực hiện hiệu quả phân luồng sau trung học cơ sở, định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Phạm Văn Đồng và các trường cao đẳng của tỉnh. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Trường Chính trị tỉnh và các trung tâm chính trị cấp huyện. Chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Khắc phục triệt để tình trạng học sinh bỏ học, nhất là ở miền núi.

Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đào tạo, thu hút, sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng. Chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, khuyến khích tinh thần tự học tập, tự đào tạo, tự nghiên cứu để nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Coi trọng học tập, nâng cao trình độ ngoại ngữ, nhất là Tiếng Anh; phấn đấu lãnh đạo cấp phòng trong các cơ quan của hệ thống chính trị sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ. Đổi mới và nâng cao chất lượng các trường đào tạo nghề theo hướng gắn đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Chú trọng đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp; đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

2.3. Phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng công tác thông tin, truyền thông và báo chí

Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ để thực sự là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Chuyển đổi cơ chế đầu tư, quản lý tài chính trong lĩnh vực khoa học, công nghệ theo nguyên tắc đặt hàng, dựa vào kết quả, hiệu quả cuối cùng. Ưu tiên và huy động các nguồn lực, nhất là từ doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu, phát triển, đổi mới và ứng dụng công nghệ. Thúc đẩy nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị phục vụ đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và con người. Từng bước hình thành, phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kết nối với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Lựa chọn, tập trung phát triển công nghệ mới có khả năng ứng dụng, tạo giá trị gia tăng cao vào phát triển sản phẩm chủ lực của tỉnh. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng và hoạt động sở hữu trí tuệ.

Phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin. Tăng cường năng lực quản lý các loại hình thông tin trên Internet.  

2.4. Phát triển sự nghiệp y tế

Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ trong các bệnh viện công lập. Xây dựng đội ngũ y, bác sĩ, cán bộ quản lý y tế có năng lực chuyên môn sâu, có trách nhiệm và tinh thần phục vụ chuyên nghiệp. Đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của y tế xã, phường, thị trấn bảo đảm đúng vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phát triển mạng lưới y tế học đường. Nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện cấp tỉnh. Khuyến khích phương thức đối tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu. Thu hút đầu tư các bệnh viện tư nhân cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét nghiệm, triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử. Chủ động kiểm soát và ứng phó với các dịch bệnh; phát triển hệ thống y tế dự phòng. Tăng cường kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc thực phẩm. Thực hiện tốt bảo hiểm y tế toàn dân, công tác dân số, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.

2.5. Thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; giảm nghèo bền vững, nhất là ở các huyện miền núi

Đẩy mạnh các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, các hoạt động an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công. Phát triển và đa dạng hóa các dịch vụ trợ giúp xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân, nhất là nhóm yếu thế hòa nhập, tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng phù hợp với điều kiện của người dân và hội nhập. Khắc phục tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Thực hiện đầy đủ quyền trẻ em, tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi để trẻ em phát triển toàn diện. Bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi.

Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, đề án, chính sách giảm nghèo đa chiều, nhất là ở các huyện miền núi. Làm tốt công tác giáo dục, đào tạo, thông tin, truyền thông để nâng cao nhận thức, khắc phục căn bản tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo; xem đây là giải pháp căn cơ cho người dân thoát nghèo bền vững. Thực hiện tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn, chuyển giao kiến thức, kỹ năng, tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất cho người dân. Tiếp tục quan tâm hỗ trợ tín dụng chính sách xã hội, thực hiện lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án để hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình. Phấn đấu tỷ lệ giảm nghèo bình quân ở miền núi từ 4 - 4,5%/năm, đồng bằng từ 0,4 - 0,6%/năm.

Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư do thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp, đô thị và các lĩnh vực khác. Đẩy mạnh đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên các nước, địa bàn an toàn, có thu nhập tốt. Thực hiện tốt công tác tái định cư, bảo đảm đời sống người dân sau tái định cư bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

3. Về quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu

Đặt yêu cầu về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.

Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản và tài nguyên. Chấn chỉnh, siết chặt quản lý, xử lý nghiêm các hành vi khai thác khoáng sản trái phép, đặc biệt là khai thác cát, sỏi lòng sông. Bảo vệ và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên nước ở Lý Sơn, vùng ven biển, lưu vực các dòng sông, nước ngầm và nguồn nước từ hệ thống thủy lợi Thạch Nham. Tăng cường quản lý, bảo vệ rừng. Thực hiện tốt công tác bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các giống, loài động, thực vật quý hiếm; bảo vệ, phát triển các nguồn gen bản địa, ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật ngoại lai, biến đổi gen tác động xấu đến con người và môi trường.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai; nâng cao chất lượng lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác định giá đất, bảo đảm sát với thị trường. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, khai thác và sử dụng tài nguyên.

Ưu tiên nguồn lực cho lĩnh vực bảo vệ môi trường. Chủ động phòng ngừa ô nhiễm; xây dựng, ban hành các tiêu chí về môi trường để sàng lọc, lựa chọn các dự án đầu tư; xác lập danh mục các ngành, lĩnh vực sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để hạn chế đầu tư. Nâng cao chất lượng công tác đánh giá tác động môi trường. Kiên quyết bảo đảm các yêu cầu về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường trong các dự án đầu tư. Tập trung rà soát các tác động môi trường của các dự án lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, cảnh báo ô nhiễm môi trường; kiểm soát chặt chẽ việc xả thải của các cơ sở sản xuất ở các đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề. Chú trọng xử lý môi trường khu vực nông thôn.

Nâng cao nhận thức, vận động người dân thực hiện nếp sống thân thiện với môi trường, tự giác chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là thực hiện phân loại rác thải tại nguồn, hạn chế và tiến tới không sử dụng túi ni lông dùng một lần. Từng bước xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, coi rác thải là tài nguyên. Tăng cường năng lực thu gom, hạn chế tối đa việc chôn lấp, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế kết hợp thu hồi năng lượng.

Xây dựng các kịch bản, nâng cao năng lực của người dân và chính quyền trong việc chủ động ứng phó, giảm nhẹ hậu quả do thiên tai gây ra. Xây dựng, cập nhật kế hoạch hành động thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ sở khoa học. Đầu tư các công trình chống sạt lở; bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ ven biển. Chủ động tìm kiếm, nghiên cứu các giống cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu.

4. Về quốc phòng, an ninh, nội chính, đối ngoại

Thực hiện hiệu quả các chủ trương của Trung ương, của tỉnh về quốc phòng, an ninh, công tác nội chính, cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng. Tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc và phát triển các tiềm lực quân sự, quốc phòng, an ninh. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và giữa kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, chú ý khu vực miền núi, vùng biển, đảo và các vùng trọng điểm. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, "thế trận lòng dân" vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Tổ chức tốt lực lượng dân quân biển, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Triển khai hệ thống phòng thủ ở các địa phương ven biển và trên huyện đảo Lý Sơn. Tổ chức, động viên ngư dân kiên cường bám biển, khai thác hải sản, góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Nâng cao khả năng phân tích, đánh giá, dự báo tình hình; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nâng cao chất lượng và sức mạnh của lực lượng quân sự, công an, biên phòng; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, công an xã vững mạnh. Đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong công tác tham mưu giải quyết kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, hình thành điểm nóng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh. Chăm lo, thực hiện tốt chính sách đối với lực lượng vũ trang, chính sách hậu phương quân đội, công an.

Huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong đấu tranh, phòng ngừa, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm công nghệ cao; tăng cường, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Bảo đảm an ninh, trật tự Khu Kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu vực nông thôn. Đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án bảo đảm đúng quy định pháp luật. Thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế, giảm tai nạn giao thông cả 03 tiêu chí; phòng, chống cháy, nổ. Thực hiện tốt công tác phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, coi trọng phương châm “4 tại chỗ”. Hàng năm, thực hiện đạt 100% chỉ tiêu giao quân; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh rộng khắp; huy động lực lượng dự bị động viên đạt 95%.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra, thực hiện kết luận thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung giải quyết dứt điểm, hiệu quả các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, gây bức xúc trong Nhân dân, nhất là về đất đai, môi trường. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, phù hợp với từng đối tượng, vùng, miền. Ngăn chặn, kiên quyết xử lý các tàu cá, ngư dân đánh bắt trái pháp luật.

 Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, xác lập quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Khai thác tối đa các cơ hội có được từ quá trình hội nhập, hạn chế thấp nhất các tác động tiêu cực khi nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Thu hút các nguồn lực về vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và thị trường để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Duy trì và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ hữu nghị truyền thống; mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác mới; xúc tiến, vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động phối hợp đấu tranh, can thiệp và bảo hộ ngư dân có tàu thuyền bị nước ngoài bắt giữ.

5. Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

5.1. Về xây dựng Đảng

5.1.1. Về chính trị, tư tưởng, đạo đức

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng và những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng vào tình hình thực tế của tỉnh. Nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng bộ và cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp. Nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược của Đảng bộ trong hoạch định các chủ trương, định hướng phát triển. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống hiệu quả các biểu hiện cơ hội, bảo thủ, bè phái, cục bộ địa phương, những biểu hiện suy thoái. Khi ban hành nghị quyết, chủ trương, phải bám sát và xuất phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, cân đối, bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện bài bản, nghiêm túc, hiệu quả.

Công tác tư tưởng phải gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm chính, lấy tư tưởng tiến bộ, tích cực để đẩy lùi tư tưởng sai trái, lạc hậu. Tiếp tục thực hiện và đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời và hiệu quả. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, học tập lý luận chính trị, các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, phù hợp với từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên. Thường xuyên sơ, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những vấn đề mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Nắm chắc, chủ động, kịp thời xử lý thông tin và định hướng dư luận; giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của nhân dân và các vấn đề nhạy cảm, phức tạp phát sinh; đấu tranh phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình", tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35; thực hiện đồng bộ các biện pháp đấu tranh, bác bỏ những thông tin xuyên tạc, sai trái, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chủ trương, chính sách của tỉnh. Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí; phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng; bảo đảm an ninh tư tưởng trên không gian mạng.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; quy định về những điều đảng viên không được làm; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Nâng cao bản lĩnh chính trị, thực hiện tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Tỉnh ủy viên trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, đề cao trách nhiệm cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng tuyên truyền mặt tốt, mặt tích cực, biểu dương gương người tốt, việc tốt; kết hợp giữa giáo dục với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

5.1.2. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, cán bộ

Tiếp tục tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, khắc phục chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.

Kiện toàn, sắp xếp tổ chức cơ sở đảng đồng bộ, thống nhất với tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường đoàn kết, thống nhất thực sự trong Đảng. Tăng cường phát triển đảng viên từ công nhân, trí thức, doanh nhân, học sinh, sinh viên. Nâng cao chất lượng đảng viên; sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng.  

Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ, trong đó chú trọng thực hiện tốt công tác điều động, luân chuyển cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch để rèn luyện qua thực tiễn, tạo nguồn cán bộ lâu dài. Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ bảo đảm liên tục, kế thừa, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Lựa chọn, quy hoạch, theo dõi, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo tương lai của tỉnh cho 10, 20 năm đến. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tránh tình trạng chạy theo bằng cấp. Thực hiện miễn nhiệm, bãi nhiệm, từ chức, cho thôi việc hoặc thay thế kịp thời đối với cán bộ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp. Thực hiện thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý của sở, ngành và cơ quan Đảng. Phát huy trách nhiệm người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu với cấp có thẩm quyền để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu. Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu và coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu các cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chú trọng đầy đủ đến vấn đề chính trị hiện nay.  

Rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy chế, quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức ở các cấp, các ngành. Thực hiện tốt các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống chạy chức, chạy quyền.

5.1.3. Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng

Cụ thể hóa, quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng; việc thực hiện trách nhiệm nêu gương; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích thành sai phạm lớn. Thực hiện quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát để phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; coi trọng phòng ngừa, lấy xây là chính, kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với đột xuất theo chuyên đề và kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; đề cao trách nhiệm tự kiểm tra, tự soi, tự sửa. Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát huy, biểu dương các tổ chức đảng, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát hiện, xử lý nghiêm minh và công khai những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm theo quy định.

Thực hiện có hiệu quả các quy chế phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; sử dụng có hiệu quả kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan nhà nước, giám sát của Hội đồng nhân dân, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội để phục vụ cho công tác kiểm tra của Đảng. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc khắc phục các sai sót, khuyết điểm, vi phạm đã chỉ ra qua thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, giám sát. Nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng hoạt động của ủy ban kiểm tra các cấp. Tăng cường kiểm tra, giám sát, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên với ủy ban kiểm tra cấp dưới; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra giỏi về chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm bảo hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.

5.1.4. Về phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với quyết tâm cao hơn, hành động mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng bộ, chính quyền. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân; trước hết là đề cao trách nhiệm, sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị trong việc chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập. Tăng cường vai trò, trách nhiệm giám sát, phản biện của Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng. Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông trong phát hiện, phản ánh các vụ việc tham nhũng, tiêu cực và công khai kết quả xử lý. Kịp thời xác minh, điều tra, phát hiện, xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế theo đúng quy định, không có vùng cấm, đặc quyền, ngoại lệ. Xử lý, điều chuyển, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp; xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Từng bước mở rộng phạm vi phòng, chống tham nhũng ra khu vực kinh tế ngoài nhà nước.

5.1.5. Về công tác dân vận

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị về công tác dân vận, nhất là công tác dân vận chính quyền. Phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Thực hiện tốt công tác vận động người Quảng Ngãi ở trong và ngoài nước tích cực đóng góp xây dựng quê hương. Khuyến khích và tạo thuận lợi để doanh nghiệp và người dân tham gia vào quá trình tạo lập, giám sát và đánh giá chính sách. Thực hiện nghiêm dân chủ ở cơ sở; tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Chú trọng công tác dân vận đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo. Xây dựng và phát huy vai trò nòng cốt, cốt cán trong tôn giáo, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Nắm bắt và chỉ đạo giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thực hiện nghiêm trách nhiệm tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của người dân. Thực hiện tốt phong trào thi đua “Dân vận khéo”; đẩy mạnh công tác dân vận chính quyền. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực sự “gần dân, tin dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, đồng thời xây dựng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của hệ thống chính trị. Tăng cường phối hợp, thực hiện tốt các quy chế về công tác dân vận. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.

5.1.6. Về đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy

Rà soát, sửa đổi, ban hành các quy định bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, rõ vai trò, trách nhiệm của tập thể, cá nhân. Thực hiện đầy đủ, đúng trách nhiệm, quyền hạn, bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với chính quyền, đồng thời bảo đảm quyền quyết định của các cơ quan Nhà nước theo quy định, tránh bao biện, làm thay. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Tiếp tục đổi mới việc ban hành nghị quyết theo hướng ngắn gọn, khả thi, sát thực tiễn và tổ chức thực hiện bài bản, nghiêm túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, xác định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, từng cấp ủy viên phụ trách địa bàn, lĩnh vực. Các cấp ủy, người đứng đầu phải sát cơ sở, đổi mới cách thức tuyên truyền, thuyết phục, vận động, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị theo hướng cụ thể, thiết thực, sát từng đối tượng, lấy hành động gương mẫu của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên để vận động, thuyết phục quần chúng. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc giải quyết kịp thời các yêu cầu, kiến nghị chính đáng của nhân dân; lắng nghe ý kiến nhân dân; công khai các vấn đề được cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Nâng cao chất lượng chất vấn, trả lời chất vấn trong Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng.

5.2. Về xây dựng chính quyền

Tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân các cấp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp trong xây dựng, ban hành chính sách, quyết định các vấn đề quan trọng; giám sát việc thực hiện và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tiếp tục đổi mới hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn bảo đảm thực chất, đúng vấn đề cử tri quan tâm, tăng tính tranh luận, phản biện trên tinh thần trách nhiệm, xây dựng.

Tiếp tục xây dựng chính quyền kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động. Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước gắn với tinh giản biên chế. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước; thúc đẩy việc xử lý công việc trên môi trường mạng, hướng tới cơ quan nhà nước không giấy tờ, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành gắn với kiểm soát quyền lực và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu chính quyền các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao thứ hạng các chỉ số cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và các trung tâm hành chính công cấp huyện; mở rộng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, nâng cao mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính, tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức tu dưỡng phẩm chất, nâng cao trách nhiệm, hoàn thành tốt trách nhiệm công vụ. Tạo môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khơi dậy tinh thần cống hiến, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm thực chất.

5.3. Về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể

Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư và đi sâu vào từng đối tượng. Làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Tập trung nắm bắt dư luận xã hội, tích cực tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, tăng cường phát triển hội viên, đoàn viên; xây dựng, phát huy vai trò lực lượng nòng cốt, người có uy tín.

Chú trọng bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị, nhận thức pháp luật, trình độ học vấn, tay nghề cho đoàn viên, hội viên để đoàn viên, hội viên thực sự trở thành lực lượng tiên phong trong xây dựng, bảo vệ và phát triển tỉnh nhà. Phát triển và nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng của giai cấp công nhân; đổi mới hoạt động của công đoàn phù hợp với bối cảnh, điều kiện mới. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Xây dựng đội ngũ trí thức, doanh nhân ngày càng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong tình hình mới. Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng phát triển, tinh thần xung kích, sáng tạo của thanh niên. Thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp về bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ. Nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Phát huy vai trò của cựu chiến binh trong xây dựng Đảng, chính quyền, phát triển kinh tế - xã hội và giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong tập hợp, đoàn kết lực lượng, động viên tinh thần cống hiến của các hội viên cho sự nghiệp phát triển của tỉnh. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua phát triển sâu rộng.

III. CÁC NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, ĐỘT PHÁ TRONG NHIỆM KỲ 2020 - 2025

Cùng với việc thực hiện toàn diện, đồng bộ các phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả 04 nhiệm vụ trọng tâm và 03 đột phá sau:

- Các nhiệm vụ trọng tâm

(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng bộ, chính quyền và hệ thống chính trị.

(2) Cải cách hành chính; nâng cao thứ hạng các chỉ số về cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

(3) Đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

(4) Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững ở các huyện miền núi.

- Các đột phá

(1) Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển công nghiệp.

(2) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

(3) Đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tạo động lực cho phát triển.

Với tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết, quyết tâm, năng động, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, phương hướng, nhiệm vụ do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đề ra, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

 

 

T/M TỈNH ỦY

BÍ THƯ

 

 

 

 

Bùi Thị Quỳnh Vân

 

 

 

[1] Kế hoạch năm 2020 tăng trưởng khoảng 7,5 – 8,5%. Tuy nhiên, do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch Covid-19 nên dự kiến năm 2020 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,4% so với năm 2019 nên kéo theo tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 – 2020 chỉ đạt 4,83%.

[2] Tăng từ 18,73% năm 2015 lên 24,37% năm 2020.

[3] GTSX công nghiệp khai khoáng tăng bình quân 7,8%/năm; GTSX công nghiệp sản xuất điện và phân phối điện, khí đốt tăng bình quân 16,9%/năm; GTSX công nghiệp cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng bình quân 9,4%/năm; GTSX chế biến, chế tạo tăng bình quân 4,5%/năm.

[4] Tỷ trọng GTSX sản phẩm lọc, hóa dầu trong tổng GTSX ngành công nghiệp giảm từ 83% năm 2015 còn 58,9% năm 2020.

[5] Chiếm hơn 98% trong giá trị sản xuất công nghiệp.                                                                                         

[6] Từ năm 2016 đến nay, Khu Kinh tế Dung Quất và các khu công nghiệp đã thu hút được 176 dự án trong nước, tổng vốn đầu tư 153.000 tỷ đồng; 36 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 859,07 triệu USD.

[7] Tổng nguồn vốn huy động và lồng ghép đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2015 – 2020 khoảng 11.767 tỷ đồng.

[8] Đã xây mới và nâng cấp 26 hồ chứa nước, 16 đập dâng, đập ngăn mặn, 04 trạm bơm; triển khai 08 dự án phục vụ tiêu úng, thoát lũ và 01 đê kè chống sạt lở bờ biển; kiên cố hóa 549,2 km kênh mương các loại.

[9] Từ 59,72 triệu đồng năm 2015 tăng lên 74,5 triệu đồng năm 2020.

[10] Như tôm hùm, cá bớp, hàu Thái Bình Dương, ốc hương, hải sâm,…

[11] Nghị quyết XIX đặt mục tiêu đến năm 2020, tỉnh ta có 55 xã và 02 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Dự kiến đến cuối năm 2020, có 102 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tuy nhiên, do sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên số xã đạt chuẩn nông thôn mới giảm còn 89 xã.

[12] Đã đầu tư 539 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn đặc biệt khó khăn.

[13] Đã thực hiện 836 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế cho 38.650 lượt hộ nghèo, nhân rộng 05 mô hình giảm nghèo bền vững với 96 hộ tham gia. Thu nhập bình quân của hộ nghèo từ 7,2 triệu đồng/người/năm năm 2015 tăng lên 9,36 triệu đồng/người/năm năm 2020.

[14] Năm 2018, có 90 hộ được chọn hỗ trợ từ Đề án, thu nhập tăng từ 4,8 triệu đồng lên 18 triệu đồng. Năm 2019, có 43 hộ được chọn hỗ trợ từ Đề án, thu nhập tăng từ 7,5 triệu đồng lên 21,6 triệu đồng. Trong 02 năm thực hiện Đề án, có 1.236 hộ đăng ký thực hiện Đề án đã thoát nghèo (trong đó, Tây Trà 565 hộ, Sơn Tây 671 hộ).

[15] Bình quân doanh thu tăng 11,7%/năm, lượng khách tăng 8,2%/năm, lượng hàng hóa vận chuyển tăng 10,1%/năm.

[16] Trong 5 năm, có khoảng 1.240 dự án, công trình được đầu tư, xây dựng (110 dự án chuyển tiếp, 230 dự án khởi công mới, 900 dự án quy mô nhỏ thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Xây dựng nông thôn mới).

[17] Có 3.367 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 04% so với cùng kỳ giai đoạn 2010 - 2015.

[18] Đến cuối năm 2020, có 42,92% trường mầm non, 78,48% trường tiểu học, 86,36% trường trung học cơ sở, 63,16% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ học sinh trúng tuyển (nguyện vọng 1) vào các trường đại học, cao đẳng năm 2016 đạt 36,67%, năm 2017 đạt 49,16%, năm 2018 đạt 48,49% (mục tiêu Nghị quyết XIX là 30% - 35%). Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông bình quân hàng năm đạt xấp xỉ 90%.

[19] Đã tổ chức 5 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho hơn 1.000 cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cử hơn 500 lượt cán bộ đi đào tạo lý luận chính trị (chưa kể các lớp trung cấp chính trị tổ chức tại tỉnh); cử đi đào tạo 14 tiến sĩ, gần 200 thạc sĩ, hơn 700 cử nhân đại học, hơn 100 bác sĩ chuyên khoa I, II; cử hơn 80 lượt cán bộ đi bồi dưỡng ngắn hạn và trung hạn trong và ngoài nước, gần 200 lượt cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện và hơn 17.000 lượt công chức cấp xã đi bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

[20] Trong đó, có 111 bác sĩ, dược sĩ.

[21]  Đã triển khai thực hiện 06 chương trình về khoa học, công nghệ: phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nhân; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; khoa học xã hội và nhân văn; bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân; phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ.

[22] Triển khai 23 dự án, mô hình trong lĩnh vực nông nghiệp; 05 dự án, mô hình ứng dụng trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; 02 dự án, mô hình trong lĩnh vực tài nguyên, bảo vệ môi trường; 12 đề tài nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; 05 đề tài, dự án trong lĩnh vực y, dược.

[23] Hỗ trợ 17 dự án tham gia Chương trình đổi mới thiết bị công nghệ; 20 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hợp tác xã và hộ kinh doanh phát triển tài sản trí tuệ; 58 doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

[24] Giải quyết chế độ cho trên 29.720 người có công và thân nhân người có công; hỗ trợ xây mới, sửa chữa 8.734 nhà. Đầu tư, nâng cấp sửa chữa 40 nghĩa trang liệt sĩ, xây dựng 08 nhà bia ghi tên liệt sĩ.

[25] Theo số liệu khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê (02 năm công bố một lần).

[26] Vận động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tài trợ 356 tỷ đồng với 226 chương trình, dự án.

[27]  Đã sắp xếp tổ chức bộ máy 04 sở, ngành, giảm được 06 phòng, ban, 04 chi cục; giảm 152 đơn vị sự nghiệp công lập. Sắp xếp, tổ chức lại 13 Ban quản lý dự án đầu tư còn lại 03 ban trực thuộc UBND tỉnh và 01 ban trực thuộc Khu KKT Dung Quất và các khu công nghiệp tỉnh.

[28] Đã thực hiện Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy đồng thời Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đồng thời là Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh. Ở cấp huyện, 12/13 địa phương thực hiện trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 13/13 địa phương thực hiện trưởng ban tuyên giáo đồng thời là giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị; 08/13 địa phương thực hiện trưởng ban tổ chức đồng thời là trưởng phòng nội vụ; 05/13 địa phương thực hiện chủ nhiệm ủy ban kiểm tra đồng thời là chánh thanh tra, đặc biệt có 05 đơn vị (Trà Bồng, Sơn Tịnh, Đức Phổ, Tư Nghĩa, Minh Long) thực hiện cả 04 chức danh nêu trên; có 13/13 địa phương thực hiện hợp nhất văn phòng cấp uỷ với văn phòng HĐND và UBND; 05/13 địa phương thực hiện hợp nhất ban tổ chức với phòng nội vụ; 04/13 địa phương thực hiện hợp nhất cơ quan ủy ban kiểm tra với cơ quan thanh tra; 02/13 địa phương thí điểm thành lập cơ quan tham mưu, giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; 02/13 địa phương thực hiện thí điểm sáp nhập trung tâm bồi dưỡng chính trị với ban tuyên giáo.

[29] Từ năm 2015 đến năm 2019, đã tinh giản 1.896 người, trong đó khối hành chính 141 người, khối sự nghiệp 1.590 người, cán bộ, công chức cấp xã 155 người, hợp đồng theo Nghị định 68 của Chính phủ 10 người.

[30] Trong đó, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy thi hành kỷ luật 15 đảng viên (trong đó có 08 Tỉnh ủy viên) bằng các hình thức khiển trách 11, cảnh cáo 01, cách chức 01, khai trừ 02.

[31] Tăng từ 48,51% năm 2015 lên 75,59% năm 2020.